a. Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
(Trần Tế Xương, Thương vợ)
→ Cả hai câu thơ đều sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ: lặn lội thân cò, eo sèo mặt nước.
b. Xóm làng xanh mát bóng cây
Sông xa trắng cánh buồm bay lưng trời
(Trần Đăng Khoa, Quê em)
→ Cả hai câu thơ đều sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ: xanh mát bóng cây, trắng cánh buồm bay.
c. Chị Dậu về đến đầu nhà đã nghe tiếng khóc khàn khàn của hai đứa trẻ. Sấp ngửa, chị chạy vào cổng, quẳng cả rổ mẹt, mê nón xuống sân, rồi vội vàng chị vào trong nhà.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
→ Câu văn thứ hai sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ: sấp ngửa, chị chạy vào cổng; vội vàng chị vào trong nhà.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
(Bà Huyện Thanh Quan, Qua Đèo Ngang)
- Cả 4 câu thơ đều sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ.
- Câu 1: Nhấn mạnh tư thế, hình dáng nhỏ bé của con người, làm nổi bật khung cảnh hùng vĩ, hiểm trở của Đèo Ngang.
- Câu 2: Nhấn mạnh số lượng ít ỏi và sự thưa thớt của những ngôi nhà, từ đó gợi không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng.
- Câu 3, 4: Thể hiện nỗi niềm hoài cổ - nhớ tiếc quá khứ vàng son đã trôi qua và tâm trạng nhớ gia đình, quê hương.
a. Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
(Nguyễn Đình Chiểu, Chạy giặc)
→ Nhấn mạnh tình cảnh bơ vơ, tan tác; tâm trạng hoang mang, sợ hãi của con người và vạn vật khi chiến tranh bất ngờ ập đến; thể hiện nỗi buồn thương, đau đớn trước cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than.
b. Con đê cát đỏ cỏ viền
Leng keng nhạc ngựa ngược lên chợ Gò.
(Hoàng Tố Nguyên, Gò Me)
→ Gợi ấn tượng về những âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng nhạc ngựa và thể hiện niềm vui trước nhịp sống bình yên, thân thuộc của quê hương.
c. Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
(Tế Hanh, Quê hương)
→ Nhấn mạnh không khí đông vui, nhịp sống sôi động nơi làng chài khi đón những con thuyền đầy ắp cá, bình yên trở về sau chuyến ra khơi.