- Dẫn dắt, giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu nội dung khái quát cần phân tích, đánh giá.
1. Khái quát chung về thể loại
- Khái niệm (truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, kịch,….)
- Đặc trưng thể loại:
2. Phân tích, đánh giá
2.1. Phân tích, đánh giá nội dung của tác phẩm
- Xác định chủ đề của tác phẩm. (có thể tóm tắt ngắn gọn nội dung tác phẩm)
- Phân tích và đánh giá chủ đề của tác phẩm.
2.2. Phân tích, đánh giá nghệ thuật của tác phẩm
- Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
- Đánh giá tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.
- Khẳng định lại những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ sau khi đọc tác phẩm.
Một trong những cái tên người ta nhắc đến đầu tiên khi nói về văn học Nam Bộ là Đoàn Giỏi. Trong sự nghiệp sáng tác của ông tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” là nổi tiếng nhất. Tác phẩm hội tụ độ chín của cả tư tưởng, cảm xúc và tài năng nghệ thuật của Đoàn Giỏi, cũng là thành tựu đáng mơ ước trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Đoạn trích “Đất rừng phương Nam” thuộc chương 9 trong cuốn tiểu thuyết, cũng đã thể hiện rõ nét những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.
Tiểu thuyết là thể loại tự sự có dung lượng lớn, thông qua hoàn cảnh, sự việc, nhân vật để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và mang những đặc trưng riêng biệt. Tiểu thuyết tái hiện con người và cuộc sống bằng cái nhìn giàu chất văn xuôi, tạo sự gần gũi, chân thực và khách quan. Thể loại này cũng nhìn đời sống từ góc độ đời tư, phác họa những bức tranh sống động về số phận con người trong đời sống. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng là con người nếm trải, thường gặp nhiều vấn đề, thăng trầm, biến đổi trong cuộc sống,... Nam Bộ là một vùng đất non trẻ so với các vùng lãnh thổ khác của đất nước nhưng tiểu thuyết viết về vùng đất này khá thịnh hành trong thời kì đầu của phong trào sáng tác văn học Nam Bộ. Một trong số đó là “Đất rừng phương Nam” - một tác phẩm được đông đảo độc giả biết đến và đón nhận, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và còn được dựng thành phim. Cuốn tiểu thuyết đã mang đến cho người đọc rất nhiều trải nghiệm thú vị, hấp dẫn về bối cảnh, con người, tập tục văn hóa của vùng đất Nam Bộ.
Trích đoạn “Đất rừng phương Nam” đã thuật lại hành trình An theo tía nuôi và thằng Cò đi “ăn ong” - đi lấy mật. Không gian được miêu tả là rừng tràm U Minh, vào một buổi sáng bình yên, trong vắt, mát lành. Buổi trưa ở đây tràn đầy ánh nắng, ngất ngây hương thơm hoa tràm, tiếng chim hót líu lo và hàng ngàn con chim bay lên,... Đó là vẻ đẹp đầy chất thơ, hoàng dã của rừng U Minh, đồng thời là sự sống đa dạng, phong phú của các loài sinh vật, mang đến sức hấp dẫn cho độc giả.
Những nhân vật trong trích đoạn cũng hiện lên sinh động. Tía nuôi của An - một người đàn ông với vẻ đẹp mạnh mẽ, vững chãi của một người lao động từng trải, chất phác, can đảm. Từng lời nói và cách cư xử của ông đều thể hiện sự quan tâm và tình yêu thương chân thực dành cho cậu con nuôi. Ông gác kèo cho ong rừng làm tổ rất giỏi, bảo vệ, nâng niu đàn ong và hết mực trân trọng sự sống. Đó là nét đẹp của một người lao động dày dạn kinh nghiệm, yêu thiên nhiên; một người cha mạnh mẽ, nhân hậu và yêu thương con người. Cò - cậu bé hiện thân của núi rừng. Cuộc sống ở nơi rừng núi từ nhỏ giúp cậu có một cơ thể khỏe mạnh, tháo vát, dẻo dai, lại có sự am hiểu và gắn bó sâu sắc với thiên nhiên. Trích đoạn đã để lại ấn tượng sâu đậm về những con người nơi đất rừng phương Nam vừa gần gũi, bình dị, vừa mạnh mẽ, phóng khoáng.
Về nghệ thuật, tác phẩm như những thước phim sống động về thiên nhiên đất rừng phương Nam. Những từ ngữ, câu văn giàu hình ảnh, âm thanh, cảnh sắc như hiện ra sinh động trước mắt độc giả: “Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kì nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh...” Trong tác phẩm, “tôi” là người dẫn truyện, ngôn ngữ dẫn truyện mang đậm chất Nam Bộ. Dù An là cậu bé xuất thân từ thành thị, nhưng hành trình lưu lạc khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã dạy cho cậu nhiều điều hay, An đã thực sự hòa nhập với vùng đất và con người miền sông nước với những ngôn ngữ và cả hành động đậm chất Nam Bộ.
Cùng với việc miêu tả thiên nhiên sinh động, tràn đầy sức sống, Đoàn Giỏi đã thể hiện chân thực hình ảnh những con người Nam Bộ với những nét tính cách nổi bật: yêu lao động, yêu thiên nhiên, nhân hậu, tình nghĩa,... Tác phẩm là bức tranh đẹp đẽ về thiên nhiên và con người vùng sông nước, đồng thời cũng thể hiện rõ nét những đặc sắc nghệ thuật, ngòi bút tài năng của nhà văn. Vì lẽ đó, cuốn tiểu thuyết được đánh giá là một trong những cuốn sách viết về thiếu nhi hay nhất của nước ta, được đông đảo bạn đọc đón nhận, yêu thích.
Bảo Ninh là cây viết xuất hiện trên văn đàn một cách nhẹ nhàng, không ồn ào, dữ dội nhưng ngày càng chinh phục được trái tim của độc giả. Ông từng chia sẻ mình “biết nhiều câu chuyện đương thời ở Việt Nam, nhưng không viết”, nhà văn chỉ tập trung viết về quá khứ chiến trường và cái quá khứ xa hơn của nó ở Hà Nội mà ông vẫn gọi là “thành phố quê hương thứ hai của tôi”. Bằng những trải nghiệm, vốn kí ức giàu có và quý giá về chiến tranh, Bảo Ninh đã cho ra đời những tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Một trong số những truyện ngắn thành công về cả nội dung và nghệ thuật của tác giả là Giang - câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ “thoảng nhanh nhưng không tắt lịm” của những con người trong chiến tranh.
Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, nội dung “bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” (Từ điển thuật ngữ văn học). Cũng như các thể loại tự sự khác, những nét độc đáo của truyện ngắn có thể khai thác là: tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả nhân vật, ngôi kể, điểm nhìn,… Đó cũng chính là những đặc sắc trong các sáng tác truyện ngắn của Bảo Ninh, được thể hiện khá đầy đủ trong truyện ngắn “Giang”.
Truyện ngắn “Giang” viết về đề tài chiến tranh - không nằm ngoài đối tượng mà Bảo Ninh luôn hướng tới, song ông tự ý thức sâu sắc trong việc thay đổi cách viết bởi trước ông đã có rất nhiều tên tuổi nổi bật, thành danh như Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê,… Tác phẩm viết về thời kì chiến tranh với hoài niệm, suy ngẫm của một người trong cuộc bước ra khỏi cuộc chiến, nhìn từ một góc độ khác: góc độ cá nhân, thân phận con người. Là một người lính, cũng là một thanh niên xung phong, Bảo Ninh đã giữ lại cho mình những kí ức đẹp đẽ trong những năm tháng máu lửa, và trong chuỗi kí ức đó có hình bóng của một cô gái, một “bóng hồng” để thương để nhớ trong tâm trí ông: Giang, Phạm Nhật Giang.
“Giang” là câu chuyện về cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng rất mực tình cảm, duyên dáng giữa cô gái Hà Nội Nhật Giang và anh bộ đội “Hùng” - cái tên Hùng được “phịa vội ra” mà cho đến mãi mãi về sau, anh cũng không có cơ hội để “cải chính”. Năm ấy, khi “tôi” - chàng lính trẻ vừa tròn mười bảy vừa được kết nạp vào một tiểu đoàn tân binh đóng quân ở Bãi Nai, vì đạt điểm cao nhất đội môn thiện xạ mà được chỉ huy cho phép hai ngày nghỉ. Song, “tôi” trở về nhà nhưng cũng nóng lòng trở lại tiểu đoàn, mười hai giờ trưa đã tức tốc chạy ra bến xe Kim Mã để bắt xe cho kịp. Sự vội vã, nôn nao ấy đã đem lại cho anh cuộc gặp gỡ định mệnh, gây biết bao thổn thức, nhớ thương. Những ngày giáp Tết, khi trời mưa rất mỏng cũng chưa tối hẳn, khi Giang đang đi gánh nước và “tôi” cũng đến giếng để “rửa ráy qua loa tí chút và xâu lại dép”. Giang giúp anh múc nước: “không xối cho tôi tự gột mà cúi mình xuống một tay nghiêng gầu nước dội nhè nhẹ, một tay cô cọ bùn đất ở ngón chân, bàn chân và bắp chân tôi”, lại “cọ kĩ cho tôi đôi dép đúc”. Hành động ân cần, chu đáo và tinh tế ấy đã khiến “tôi” sững sờ đến bất động, chàng trai mới lớn đã thực sự biết rung động. Giang mới “tôi” đến nhà, dọn cơm mời anh dùng bữa, bữa cơm trong “túp lều nhỏ, mái gianh vách đất” chỉ có “chiếc giường đơn, ngọn đèn hoa kì trên chõng tre, chiếc xe đạp Phượng Hoàng” - đơn sơ nhưng cũng ấm áp tình người. Bố của Giang - cũng là trung tá quân đội, xuất hiện với sắc mặt nghiêm nghị, nhìn chằm chằm hỏi chuyện, sau nét mặt dịu hơn, lại mỉm cười, động viên “tôi” và cho phép Giang lấy xe đạp đưa “tôi” về đơn vị. Cuộc gặp gỡ giữa “tôi” và bố Giang cũng diễn ra chóng vánh, nhưng cũng đủ để độc giả hình dung về người bố mẫu mực, đàng hoàng nhưng cũng rất đỗi tình cảm. Trong hoàn cảnh chiến tranh, cách xử sự của Giang và bố là hoàn toàn phù hợp. Như vậy, đằng sau cuộc gặp gỡ vội vã ấy là câu chuyện đầy ắp tình người, niềm tin tưởng tuyệt đối và tình thương yêu sâu sắc của đồng bào trong những ngày kháng chiến trường kì gian khổ nhưng huy hoàng của dân tộc.
Tác phẩm cũng phần nào thể hiện được những nỗi đau, những mất mát mà chiến tranh đã gây nên với con người. Tối ấy, “tôi” đèo Giang về Bãi Nai, anh chìm vào lời nói của Giang mà quên bẵng đi phải kiếm câu chuyện gì đó về mình để nói. Khi Giang đề nghị Tết vào đơn vị chơi với mình, anh chỉ biết thở một hơi thật dài rồi trầm ngâm suốt đoạn đường. Lúc chia tay, “tôi” nhìn bóng dáng Giang mờ dần trong màn đêm tĩnh lặng, hai người tạm biệt nhau mà những gì về Giang anh biết chỉ có tên phố Khâm Thiên, ngõ Chợ. Hai ngày sau, tiểu đoàn của “tôi” nhổ neo rời Bãi Nai hành quân lên Thường Tín, bất ngờ anh gặp lại bố của Giang, ông chính là tham mưu trưởng của chiến dịch lần này. Gặp lại người bạn của con, ông vô cùng ngạc nhiên và mừng rỡ. Ông còn bảo Giang muốn tặng anh một bức ảnh nhưng quên mang theo, để lần sau ông đem đến. Nhưng, chiến tranh khốc liệt, chẳng có một “lần sau” nào nữa, ông đã hi sinh trong trận chiến năm ấy. Nỗi đau mất cha, chỗ dựa duy nhất, vững chãi của cô gái mới lớn, có lẽ chẳng ngôn từ nào có thể diễn tả. Cũng sau lần đó, “tôi” không còn gặp lại Giang nữa - cuộc gặp gỡ lần đầu cũng là lần cuối.
“Chiến tranh, đời lính, tuổi trẻ, mọi sự là như thế, chỉ thế thôi, thoảng nhanh. Thoảng nhanh nhưng không tắt lịm,…” Hai đoạn văn cuối cùng của tác phẩm là suy ngẫm của tác giả về chiến tranh: thời gian sẽ phủ bụi, xóa nhòa đi tất cả nhưng không thể xóa đi kí ức của con người. Những mất mát, éo le, đau khổ, những vết thương không phương hàn gắn của chiến tranh sẽ luôn như ngọn lửa âm ỉ, thường trực trong tâm trí của người lính.
Không chỉ thành công trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng, tác phẩm cũng để lại ấn tượng cho người đọc về phương diện nghệ thuật. Về tình huống truyện, đó là tình huống nhỏ bé tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại để lại ấn tượng, dư vị khó phai nhòa. Về điểm nhìn trần thuật, “Giang” được kể lại theo điểm nhìn của nhân vật tôi - anh tân binh. “Tôi” đã kể lại câu chuyện của cuộc đời mình theo trình tự thời gian một cách đầy đủ, trọn vẹn từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc của một cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng dư vị sâu sắc, khó phai nhòa. Lựa chọn điểm nhìn của nhân vật “tôi”, câu chuyện càng thêm phần trải nghiệm, chân thực, người đọc được cảm nhận sâu sắc hơn về tình người trong cuộc chiến, những cảm xúc rung động lãng mạn nhẹ nhàng, tinh tế và cả những xúc cảm về sự mất mát, về nỗi đau li biệt. Ngôi kể thứ nhất, không phải vị thế người kể “toàn tri” song đó mới chính là bản chất của con người trong cuộc sống hiện thực: không bao giờ biết được tất cả - đó cũng chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Bảo Ninh. Trong tác phẩm, tác giả cũng đã xây dựng những cuộc đối thoại đặc sắc, thông qua đó thể hiện rõ nét nội tâm, tính cách nhân vật; đồng thời ngôn ngữ xây dựng nhân vật là thứ ngôn ngữ giản dị nhưng sâu sắc giàu chất triết lý. Quả đúng như nhận xét của Mai Quốc Liên khi viết “Đọc truyện ngắn Bảo Ninh”, tác giả cho rằng Bảo Ninh không làm thơ, nhưng văn của ông “ẩn chứa một chất thơ đích thực, một chất thơ được gạn lọc từ những thân phận người và chan hòa vào trong một thiên nhiên buồn”.
Sinh thời, Bảo Ninh vẫn luôn quan niệm nghề văn là “một nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ, nhà văn tự cho mình là kẻ có khả năng, có trách nhiệm, có ham thú đúc kết thế thái nhân tình đặng tìm ra cho mình và bạn đọc của mình những giá trị, ý nghĩa ở hiện tại vừa thay đổi không ngừng theo đời sống con người”. Trong hành trình làm văn chân chính của mình, ông đã luôn cố gắng chỉn chu trong mọi tác phẩm, đem đến cho độc giả là kết quả của sự đúc kết những năm tháng trải nghiệm hiện thực tàn khốc và bút lực, cảm nhận tài hoa, tinh tế mà “Giang” là một trong số đó. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật đã làm nên thành công và sức sống mãnh liệt cho tác phẩm.