* Định kiến xã hội:
- Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa định kiến là "ý kiến riêng đã có sẵn, khó có thể thay đổi được".
- Theo Fischer: Định kiến xã hội là những thái độ bao hàm sự đánh giá một chiều và sự đánh giá đó là tiêu cực đối với cá nhân khác hoặc nhóm khác tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ.
⇒ Hiểu một cách tổng quát thì định kiến là những ý kiến, quan điểm của 1 hoặc 1 nhóm đối tượng. Những ý kiến, quan điểm này được hình thành trước khi nhận thức chính xác về vấn đề nào đó. Hay nói cách khác, định kiến có phần chủ quan, xa rời thực tế, độ chính xác không cao.
* Ảnh hưởng của định kiến xã hội:
- Định kiến làm con người xa cách, khó hòa đồng với nhau, khó tiếp xúc và bị cô lập. Nhiều người vì định kiến mà tự đặt ra các rào cản, không dám vượt qua các giới hạn. Khi định kiến được xác định là chuẩn mực của xã hội, nó càng khiến xã hội thụt lùi.
- Không chỉ vậy, định kiến còn được nhìn nhận với các tác động đến chính bản thân người bị định kiến. Họ là người trực tiếp bị các tác động, phải chịu cái nhìn không thiện cảm từ xã hội. Thậm chí gây ra những tổn thương rất lớn cả về mặt thể xác lẫn tinh thần của cá nhân bị xã hội định kiến. Họ khó có thể hòa nhập trở lại với cuộc sống bình thường.
Trong đời sống xã hội Việt Nam ngày nay, từ Chí Phèo thường được dùng để chỉ những người thích ăn vạ, thô bạo, hay uống rượu say, có những tính cách giống nhân vật Chí Phèo trong truyện.
(1) Điểm nhìn của người kể chuyện và nhân vật:
- Điểm nhìn của người kể chuyện:
- Điểm nhìn của dân làng Vũ Đại: “Chắc nó trừ mình ra!”
- Điểm nhìn của Chí Phèo:
(2) Điểm nhìn bên ngoài và bên trong
- Điểm nhìn bên ngoài:
- Điểm nhìn bên trong:
⇒ Điểm nhìn thay đổi từ điểm nhìn của người kể chuyện đến điểm nhìn của đám đông , từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong. Như vậy, điểm nhìn có sự di chuyển, luân phiên liên tục.
* Ngoại hình:
- Trông đặc như thằng săng đá.
- Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!
- Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng.
- Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế.
* Hành động:
- Ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi.
- Lăn lộn dưới đất, lấy mảnh chai cào mặt ăn vạ nhà bá Kiến.
- Người kể chuyện không hoàn toàn miêu tả cảnh Chí Phèo gây sự với người nhà bá Kiến chỉ từ điểm nhìn của mình.
- Vì có sự tham gia của:
- Với Chí Phèo:
- Với người nhà:
- Mở mắt thì trời đã sáng lâu; Mặt trời chắc đã cao, nắng bên ngoài rực rỡ; Tiếng chim ríu rít
- Bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài; Lòng mơ hồ buồn, hắn hơi rùng mình, hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm.
- Thấy tiếng chim hót vui vẻ, thấy tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá,... Hắn thấy buồn.
- Hắn nao nao buồn khi nghe chuyện của hai người đàn bà, nhớ tới một thời đã từng ao ước có một gia đình nho nhỏ: chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng…
Điều ám ảnh Chí Phèo nhất khi nghĩ về cuộc đời mình là sự cô độc: “Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.
- Ý nghĩ:
- Hành động:
Người kể chuyện đặt điểm nhìn bên trong, với vai trò là người chứng kiến toàn bộ sự việc, hiểu rõ tính cách và tâm lý của những người trong cuộc khi miêu tả những cảm xúc của Chí Phèo lúc đón nhận bát cháo hành của thị Nở:
- Hắn thấy ngạc nhiên, bâng khuâng.
- Hắn thấy vừa vui vừa buồn, và giống như thấy ăn năn.
- Hắn nhận ra những người suốt đời không ăn cháo hành, không biết rằng cháo rất ngon.
- Đánh giá công bằng, bình đẳng, khách quan về Chí Phèo.
- Cảm thông và thương xót cho con người dưới “đáy xã hội”, bị hắt hủi không chút thương tiếc.
- Bà nhục cho cha ông nhà bà
- Bà thấy chua xót, uất ức, đổ cái uất ức lên cháu à
- Bà thấy cháu mình đĩ
- Bà thấy ai đời ngoài ba mươi còn đi lấy chồng
- Ai lại đi lấy thằng rạch mặt ăn vạ
⇒ Những lý do bà cô đưa ra không thỏa đáng, vì bà cô áp đặt suy nghĩ của mình lên thị Nở, tin vào những định kiến, lời đồn thổi về Chí Phèo từ đó phản đối việc thị Nở đến với Chí Phèo.
- Bát cháo hành của thị Nở là lần đầu tiên Chí được ăn, được chăm sóc bởi bàn tay một người đàn bà. Đó là sự quan tâm, tình thương yêu mà thị Nở dành cho hắn.
- Khi hắn muốn hoàn lương, thị lại nghe lời bà cô đã từ chối Chí. Chí Phèo đang trên con đường trở lại làm “con người” lại bị đẩy xuống hố sâu tuyệt vọng. Hắn vừa nhớ thị nhưng cũng vừa hận thị. Hơi cháo hành như sự hoài niệm về mối tình ngắn ngủi thoáng qua giữa hai người.
Việc Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến không phải hoàn toàn do hắn đã say như nhận xét trước đó của người kể chuyện bởi:
- Sau khi nghe thị Nở nói (chính là những lời từ bà cô), hắn hiểu ra cơ sự và muốn tìm đến người đã đẩy hắn vào con đường như vậy.
- Hắn muốn chấm dứt ân oán và tìm lại sự lương thiện của mình nhưng cũng không thể nào được. Do đó, hắn lựa chọn kết thúc cuộc đời của cả bản thân và kẻ đã làm hại mình.
- Tao không đến xin năm hào
- Tao đã bảo tao không đòi tiền
- Tao muốn làm người lương thiện
- Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách … biết không!... Chỉ còn một cách là … cái này! Biết không!...
⇒ Đây là nỗi lòng của Chí Phèo, không phải là lời của một kẻ say.
Người kể chuyện không đưa ra lời bình luận hay đánh giá nào của mình về sự việc xảy ra ở làng Vũ Đại. Tuy nhiên, sự đánh giá của người kể thể hiện qua lời nói của người dân làng Vũ Đại.
- Tả thực: Là hình ảnh của một chiếc lò nung gạch cũ, bị bỏ hoang vì không còn giá trị sử dụng. Là nơi Chí Phèo bị mẹ ruột vứt bỏ từ khi mới được sinh ra.
- Biểu tượng:
- Tóm tắt:
(1) Chí Phèo vốn sinh ra là một người không cha không mẹ được dân làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi nấng.
(2) Lớn lên (năm 18 tuổi) Chí trở thành một anh canh điền khỏe mạnh làm việc cho nhà bá Kiến. Vợ bá Kiến thường gọi Chí Phèo vào xoa bóp. Vốn tính hay ghen bá Kiến đã đẩy Chí vào tù.
(3) Bảy tám năm sau khi ở tù trở về Chí bỗng trở thành một kẻ lưu manh hóa, sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ khiến cả làng xa lánh, không ai thừa nhận sự xuất hiện của Chí.
(4) Chí Phèo trở về và một lần nữa trở thành công cụ tay sai cho Bá Kiến để đổi lấy tiền uống rượu.
(5) Chí Phèo gặp Thị Nở và hai người ăn nằm với nhau. Chí được Thị chăm sóc, bát cháo hành cùng những cử chỉ của Thị đã làm sống dậy khát vọng sống hoàn lương của Chí. Chí hy vọng rằng Thị sẽ là cầu nối để Chí có thể trở về với đời sống lương thiện. Thế nhưng Bà cô Thị Nở lại ngăn cản Thị Nở đến với Chí.
(6) Bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo bèn xách dao đi với mục đích ban đầu là đâm chết con khọm già nhà Thị nhưng sau lại rẽ vào nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Chí Phèo đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình.
- Việc phá vỡ trình tự thời gian trong mạch trần thuật của tác phẩm:
(1) Phân loại điểm nhìn:
* Điểm nhìn của người kể chuyện và nhân vật:
- Điểm nhìn của người kể chuyện:
- Điểm nhìn của dân làng Vũ Đại: “Chắc nó trừ mình ra!”
* Điểm nhìn bên ngoài và bên trong:
- Điểm nhìn bên ngoài:
- Điểm nhìn bên trong:
(2) Nhận xét về tương quan sự dịch chuyển giữa các điểm nhìn:
Điểm nhìn được nhà văn sử dụng linh hoạt, có sự luân chuyển. Các điểm nhìn này bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giúp cho người đọc có cái nhìn đa chiều về khung cảnh mở đầu và cảm xúc của Chí Phèo với tiếng chửi của hắn.
⇒ Nét đặc sắc trong cách mở đầu truyện ngắn: Cách giới thiệu trực tiếp nhân vật và mở đầu không theo trình tự thời gian mà đi thẳng vào giữa truyện. Cách mở đầu thật độc đáo, ấn tượng, thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ những dòng đầu tiên.
* Diễn biến tâm trạng Chí Phèo vào buổi sáng sau cuộc gặp gỡ với thị Nở đêm trước:
- Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”
⇒ Cuộc gặp với Thị Nở đã giúp Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên.
- Là niềm vui, hy vọng, ước mơ quay trở về làm người lương thiện của mình
⇒ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hy vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy
* Nhân tố mang tính quyết định đối với quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo là tình cảm chân thành của thị Nở thể hiện trực tiếp qua bát cháo hành. Bát cháo hành là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng khi đã đến “cái dốc bên kia của đời”. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện.
* Phản ứng tâm lý và hành động của Chí Phèo sau khi bị thị Nở từ chối chung sống:
- Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, bởi vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn:
⇒ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng khi tình yêu của mình không trọn vẹn
- Cảm giác phẫn uất tuyệt vọng đến tột cùng
⇒ Người kể chuyện có đưa ra những phán đoán đáng tin cậy để người đọc hiểu được tâm lý và hành động của nhân vật bởi theo mạch suy nghĩ của Chí Phèo, ta có thể hiểu hắn đã tỉnh táo và hiểu ra mọi chuyện. Hắn biết nguồn cơn của mọi chuyện đến từ ai và phải đi tìm kẻ đầu sỏ đó.
- Bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với số phận bị đày đọa, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người của người lao động lương thiện.
- Cất lên tiếng kêu cứu thảm thiết và đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện.
- Thái độ lên án gay gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi kịch đau thương cho người lao động.
- Thái độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp của người nông dân.
- Điểm nhìn: Có sự thay đổi, đan xen giữa điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của người dân làng Vũ Đại.
- Giọng điệu: tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.
- Ý nghĩa cái chết của Chí Phèo:
* Đoạn kết truyện Chí Phèo: Cái chết của Chí Phèo, Bá Kiến và hình ảnh cái lò gạch cũ hiện lên trong tâm trí của thị Nở với suy nghĩ “Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi thì làm thế nào”?
* Đoạn kết truyện Vợ nhặt: Trong bữa cơm ngày đói, người vợ nhặt kể về việc phá kho thóc Nhật của người dân miền ngược. Hiện lên trong tâm trí anh Tràng là hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ.
* So sánh:
- Giống nhau:
- Khác nhau:
→ Chỉ có đi theo cách mạng, đứng lên đấu tranh chống lại cái bạo tàn, áp bức mới có thể bảo vệ được hạnh phúc và sự bình yên của những người thân yêu.
⇒ Dù kết của hai truyện là không giống nhau nhưng nó đều truyền tải đến một ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Một bên là niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào cuộc sống hạnh phúc, một bên dù cuộc sống còn nhiều bất công nhưng con người vẫn sẽ mang trong mình bản tính lương thiện, đến thời điểm nhất định nó vẫn sẽ được biểu hiện dù hoàn cảnh có đày đọa họ như thế nào. Qua đó ta có thể thấy, cả hai tác giả đều có niềm tin mãnh liệt vào con người, vào ý chí của họ sẽ giúp họ vượt qua mọi khó khăn.
- Người kể chuyện: Người kể chuyện ở ngôi thứ ba – người kể chuyện toàn tri, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật.
- Điểm nhìn: Điểm nhìn có sự thay đổi linh hoạt, luân phiên. điểm nhìn của người kể chuyện/ điểm nhìn của nhân vật; điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong.
- Lời trần thuật: kể chuyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về chi tiết bát cháo hành của thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo.
Gợi ý
- Bát cháo hành xuất hiện ở gần cuối thiên truyện. Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.
- Bát cháo hành - biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại khô khát yêu thương.
- Bát cháo hành - vị thuốc giải cảm cho Chí Phèo. Bát cháo hành trên tay hơi nghi ngút làm cho Chí “vã mồ hôi ra như tắm”. Bát cháo tưởng vặt vãnh đã trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho Chí.
- Bát cháo hành - vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành - tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”.
- Nhưng bát cháo hành cũng chính là chi tiết đẩy bi kịch của Chí lên tới đỉnh điểm, dẫn tới một kết thúc thảm thương đầy đau đớn. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, Thị chửi Chí bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng quay về. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”. Hơi cháo hành đã không cho phép hắn trở lại cuộc sống con quỷ một lần nữa.
- Bát cháo hành - một chi tiết nghệ thuật mang đầy dụng công của Nam Cao. Nó góp phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn: Điều mà chúng ta thiếu đó chính là lòng tốt - một lòng tốt rất bình thường cũng có thể cứu rỗi con người. Và kết cục của Chí Phèo thể hiện một niềm tin của nhà văn: dẫu có bị bầm dập về nhân hình lẫn nhân tính, lương thiện trong con người đặc biệt là những người nông dân cũng không mất đi, nó chỉ cần đợi có cơ hội là sẽ bùng lên mạnh mẽ.
- Qua chi tiết nó cũng cho ta thấy một hiện thực mà nhà văn đau đáu: đó là những định kiến làng xã nông thôn đã tước đi quyền được sống của con người… Qua đó nhà văn cũng gióng lên một hồi chuông khẩn thiết đòi thay máu cho xã hội để ít nhất con người được sống lương thiện.
- Bát cháo hành - chi tiết đặc sắc đã góp phần làm nên “nhà văn lớn” Nam Cao. Tác phẩm khép lại nhưng dư âm của tình người trong chi tiết nghệ thuật ấy vẫn còn mãi.