Thực hành tiếng Việt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết

I. Lý thuyết

1. Ngôn ngữ nói

- Người nói và người nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau, thay vai luân phiên , vì vậy người nói ít có điều kiện gọt giũa lời nói.

- Ngôn ngữ nói thường có tính biểu cảm, tính cụ thể và tính cá thể cao.

- Nếu không có phương tiện kĩ thuật hỗ trợ, ngôn ngữ nói chỉ tồn tại nhất thời và được truyền trong phạm vi không gian hạn chế. 

- Ngôn ngữ nói sử dụng một cách tự nhiên những từ ngữ hoặc cách diễn đạt ít được chấp nhận trong ngôn ngữ viết như: 

  • Lớp từ mang tính khẩu ngữ (nhất là các trợ từ, thán từ, từ đưa đẩy, chêm xen,...);
  • Câu tỉnh lược, câu có yếu tố trùng lặp hay dư thừa;... 
  • Phát âm địa phương, từ ngữ địa phương, biệt ngữ,...

- Ngôn ngữ nói cũng cho phép người sử dụng phát huy tác dụng của ngữ điệu, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt,... để gia tăng hiệu quả giao tiếp. 

2. Ngôn ngữ viết

Người viết và người đọc thường không có sự tiếp xúc tiếp, vì vậy người viết có thời gian suy ngẫm, lựa chọn cách biểu đạt → Ngôn ngữ viết nói chung được gọt giũa. 

Ngôn ngữ viết có khả năng lưu trữ thông tin lâu dài và hướng tới một phạm vi người đọc rộng lớn. 

Ngôn ngữ viết đòi hỏi người viết phải tuân thủ những quy định về chính tả, từ vững, ngữ pháp, bố cục, trình bày, phong cách,...; đặc biệt, ngôn ngữ viết có thể dùng các kiểu câu dài, nhiều thành phần câu phức tạp.

II. Thực hành

1. Nhận xét đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong hai đoạn trích dưới đây:

a. Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.

À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.

- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.

- Có gì ăn thì ăn, chả ăn giầu.

Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.

- Đấy, muốn ăn gì thì ăn.

Hắn vỗ vỗ vào túi.

- Rích bố cu, hở!

Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.

Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.

Hắn cười:

- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

(Kim Lân, Vợ nhặt)

Gợi ý trả lời

- Ngôn ngữ nói trong đoạn trích văn bản Vợ nhặt – Kim Lân: leo lẻo cái mồm, ăn miếng giầu đã, hở, đấy,…

- Ngôn ngữ nói ở đây xuất hiện trong tình huống giao tiếp cụ thể: trong buổi gặp lại thị lần thứ hai.

  • Tiếp xúc trực tiếp: giữa Tràng và thị.
  • Nhân vật giao tiếp trực tiếp, phản hồi tức khắc, có sự đổi vai (thị và Tràng).

- Phương tiện ngôn ngữ: âm thanh

- Phương tiện hỗ trợ: ngữ điệu, nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ: toét miệng cười, cong cớn trước mặt hắn, thị đon đả,….

- Hệ thống các yếu tố ngôn ngữ: Từ ngữ, câu (khẩu ngữ, từ ngữ địa phương, biệt ngữ).

b. Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:

- Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ giỏi lôi thôi, biết gì?

Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:

- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà lại xúm lại như thế này?

Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi? Ai dại gì mà đứng ì ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng! Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và nói:

- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?

Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:

- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm; người ta bảo cụ hơn người cũng bởi tại cái cười:

- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngóe đâu? Lại say rồi phải không?

Rồi, đổi giọng, cụ thân mật hỏi:

- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi, đi vào nhà uống nước.

Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:

- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói chuyện tử tế với nhau. Cần gì phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.

Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:

- Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lí Cường nóng tính không nghĩ trước sau. Ai, chứ với nó còn có họ kia đấy.

(Nam Cao, Chí Phèo)

Gợi ý trả lời

- Ngôn ngữ nói trong đoạn trích văn bản Chí Phèo – Nam Cao: đứng ỳ ra, đấy thôi, biết chừng, con ngóe đâu,…

- Ngôn ngữ nói ở đây xuất hiện trong tình huống giao tiếp cụ thể: Chí Phèo đến nhà bá Kiến rạch mặt ăn vạ

  • Tiếp xúc trực tiếp: Chí Phèo - bá Kiến; bá Kiến - người nhà, bá Kiến - dân làng
  • Nhân vật giao tiếp trực tiếp, phản hồi tức khắc, có sự đổi vai (Chí Phèo và bá Kiến).

- Phương tiện ngôn ngữ: âm thanh

- Phương tiện hỗ trợ: ngữ điệu, nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ: rên lên, đang xưng xỉa chực tâng công,…

- Hệ thống các yếu tố ngôn ngữ: Từ ngữ, câu (khẩu ngữ, từ ngữ địa phương, biệt ngữ).

2. Phân tích các đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ viết trong đoạn trích sau:

Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi gây của xác người. […]

Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

Gợi ý trả lời

- Tình huống giao tiếp: không tiếp xúc trực tiếp. Đoạn văn là lời người kể chuyện nên có điều kiện suy ngẫm, lựa chọn, gọt giũa các phương tiện ngôn ngữ.

- Phương tiện ngôn ngữ: chữ viết

- Phương tiện hỗ trợ: dấu câu

  • Hệ thống các yếu tố ngôn ngữ:
  • Từ ngữ: Được chọn lọc, gọt giũa. Sử dụng từ ngữ phổ thông.
  • Câu: Câu chặt chẽ, mạch lạc: câu dài nhiều thành phần.
  • Đoạn văn: Có kết cấu chặt chẽ, mạch lạc ở mức độ cao.
  • 42 lượt xem
Sắp xếp theo