Thực hành tiếng Việt: Một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường

Câu 1: Chỉ ra nét độc đáo, khác lạ trong kết hợp từ “buồn điệp điệp” ở câu mở đầu bài thơ Tràng giang.

- Từ láy “điệp điệp” vốn được dùng để chỉ những sự vật có số lượng nhiều và nối tiếp nhau như núi trùng trùng điệp điệp → chỉ những ngọn núi nhấp nhô nối tiếp nhau từ dãy núi này đến dãy núi khác.

- “Buồn” chỉ tâm trạng của con người.

→ Trong từ “buồn điệp điệp” ở dòng mở đầu bài thơ Tràng giang tác giả đã tạo ra cách kết hợp từ trái với logic. Cách kết hợp như vậy gợi tả một nỗi buồn day dứt, tác giả đang rơi vào một tâm trạng thê lương với nỗi buồn kéo dài bất tận.

Câu 2: Phân tích lí do khiến cụm từ “sâu chót vót” trong bài thơ Tràng giang gây được ấn tượng đặc biệt với người đọc.

- “Chót vót” là từ láy vốn chỉ được sử dụng để diễn tả độ cao → trong câu thơ của Huy Cận lại đi với chiều sâu.

- Cảm giác sâu chót vót là có thật bởi tác giả nhìn dòng sông và thấy bầu trời dưới đáy sông sâu. Không gian được mở rộng đến hai lần: có cả chiều cao (từ mặt nước lên bầu trời) và cả chiều sâu (bầu trời dưới đáy sông sâu).

→ “Sâu chót vót” là một trong những từ thể hiện rõ cách kết hợp từ đầy độc đáo, sáng tạo, táo bạo của Huy Cận.

Câu 3: Hãy nhận diện và phân tích ý nghĩa của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường được thể hiện trong hai câu thơ sau:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

- Tác giả sử dụng hình thức đảo ngữ: Lơ thơ cồn nhỏ, tiếng làng xa vãn chợ chiều. (Thông thường câu thơ có thể viết là: Cồn nhỏ lơ thơ gió đìu hiu/ Tiếng làng xa đâu vãn chợ chiều)

- Hình thức đảo ngữ giúp nhấn mạnh hình ảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Cảnh vật bên cồn thưa thớt trống trải, âm thanh của tiếng chợ chiều đã vãn bao giờ cũng chứa chất nỗi buồn.

→ Không chỉ nhấn mạnh vào sự hiu hắt, cô quạnh của cảnh vật mà qua đó tác giả cũng muốn nói lên nỗi buồn thầm kín ẩn sâu trong tâm hồn mình, một nỗi buồn man mác, cô đơn giữa đất trời, vũ trụ bao la rộng lớn của một con người mang trong mình tâm trạng trĩu nặng.

Câu 4: Phân tích giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở dòng thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” trên cơ sở liên hệ đến chức năng thông thường của dấu hai chấm trong văn bản.

- Giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở dòng thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”: Tác giả đã bổ sung chức năng mới cho dấu câu, diễn tả hai hình ảnh đối lập nhau. Dấu hai chấm không chỉ đơn thuần để ngắt câu mà nó còn mang dụng ý nghệ thuật sâu sắc nhằm nhấn mạnh hơn không gian bao la, bát ngát đến vô tận.

→ Con chim lẻ loi đơn độc này dường như đang mang một gánh nặng, một bóng chiều trong mình, không chỉ trong cảm xúc, mà còn trong dòng chảy nghệ thuật.

Câu 5: Trong bài Tỳ bà của Bích Khê, hai dòng thơ cuối được tác giả viết như sau:

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.

(Bích Khê. Tinh huyết, Trọng Miên xuất bản, 1939)

Ở một số bản in về sau, hai dòng thơ trên đã có một biến dổi:

Ô hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.

(Thơ Bích Khê, Sở văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, 1988)

Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, theo bạn, nguyên nhân của sự biến đổi trên có thể là gì? Dựa vào bản in bài thơ năm 1939, hãy làm rõ sự sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ ở thời điểm này.

- Nguyên nhân của sự biến đổi:

  • Ở bản in thơ năm 1939 có hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường.
  • Ở bản in năm 1988, không có hiện tượng này.
    → Có thể do tác giả phát hiện ra một nét nghĩa mới về câu thơ.

- Ở bản in năm 1939, tác giả dùng dấu chấm than ở câu thơ thứ nhất “Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng”. Tác giả bổ sung chức năng mới cho dấu câu. Thông thường dấu chấm than dùng để bộc lộ cảm xúc hoặc kết thúc câu cầu khiến. Ở trong câu thơ này, dấu chấm than chia câu thơ làm hai về, vừa để bộc lộ cảm xúc, vừa như có ý để hỏi.

- Ở bản dịch năm 1988, người dịch đã bỏ dấm chấm hỏi đi và để câu thơ thành “Ô hay buồn vương cây ngô đồng…”. Cách viết như vậy nhằm thể hiện một sự chắc chắn, khẳng định của tác giả. Nếu từ “Ô! Hay…” gợi lên cảm giác về một nỗi buồn còn mơ hồ, không biết là thực hay hư thì đến bản dịch này, người dịch dường như khẳng định nỗi buồn đó chính là của tác giả một nỗi buồn miên man, mênh mông bao trùm lên cảnh vật.

  • 5 lượt xem
Sắp xếp theo