Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện

I. Các thao tác viết một văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm

Bước 1: Chuẩn bị

+ Đọc kĩ đề bài, xác định rõ yêu cầu nghị luận mà đề văn đã nêu.

+ Đọc lại văn bản truyện được nêu trong đề, xác định vấn đề cụ thể (nội dung, hình thức) mà bài viết sẽ phân tích, đánh giá.

- Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý.

+ Đặt và trả lời các câu hỏi có liên quan đến vấn đề nghị luận

+ Xác định các yếu tố sẽ phân tích, đánh giá của vấn đề nghị luận, xây dựng luận điểm phân tích đánh giá các yếu tố này.

+ Tìm các bằng chứng cụ thể chứng minh cho các luận điểm.

+ Sắp xếp các ý đã tìm theo một bố cục mạch lạc gồm ba phần: MB – TB – KB.

- Bước 3: Triển khai bài viết

+ Dựa vào dàn ý đã chuẩn bị để viết bài văn hoàn chỉnh

+ Đảm bảo bố cục ba phần rõ ràng, mạch lạc; các luận điểm ở thân bài cần làm rõ cho vấn đề nêu ở mở bài; các bằng chứng lấy từ văn bản truyện phải phù hợp; lời văn trong sáng thể hiện được thái độ, tình cảm của người viết với nhân vật được phân tích.

II. Gợi ý viết bài

Phân tích và đánh giá nhân vật dì Mây trong truyện “Người ở bến sông Châu” của Sương Nguyệt Minh.

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Người ở bến sông Châu

- Giới thiệu khái quát về nhân vật dì Mây

2. Thân bài

* Nêu bối cảnh lịch sử - xã hội của truyện Người ở bến sông Châu”: đời sống con người sau hậu chiến

* Tóm tắt về cuộc đời dì Mây: Hoàn cảnh gia đình, tình yêu của dì Mây với chú San trước chiến tranh; cuộc sống chiến đấu của dì Mây ở chiến trường, cuộc sống của dì Mây ngày trở về quê hương,..

- Dì Mây trước chiến tranh có mối tình say đắm với chú San. Sau khi chú San đi nước ngoài, dì tham gia cuộc chiến, là một quân y sĩ Trường Sơn dũng cảm (dẫn chứng: chắn cửa hầm che chở cho thương binh, bản thân bị mảnh đạn phạt một chân)

- Hòa bình lập lại, cuộc sống của Mây chất chồng những bi thương:

+ Nỗi đau từ việc người yêu đi lấy vợ (do nhầm tưởng Mây đã hy sinh),

+ Nỗi ám ảnh về những đau thương của cuộc chiến mới qua, sự hy sinh của đồng đội… đã khiến Mây sống lặng lẽ, cô đơn trên chính quê hương mình.

* Phân tích, đánh giá nhân vật dì Mây thông qua các tình huống trớ trêu, đau khổ; những lựa chọn khó khăn và lòng can đảm khi đối mặt với những thứ thách của tác giả.

- Dì Mây là người yêu nước, người lính dũng cảm kiên cường trong cuộc chiến:

+ Xung phong đi bộ đội giữa tuổi thanh xuân đẹp nhất.

+ Liều mình chắn cửa hầm che chắn cho thương binh.

- Dì Mây là người con gái vị tha, cao thượng:

+ Ngày trở về cũng là ngày người yêu đi lấy vợ: dù đau khổ nhưng lựa chọn không quay lại với chú San để người vợ của chú không lâm vào hoàn cảnh khó xử

+ Dì trở lại nghề y sĩ khi ra làm ở trạm xá xã. Dù mất một chân, dì đi lại khó khăn khi phải đi khám những đêm trời mưa nhưng cố gắng.

+ Vợ chú San vượt cạn thiếu tháng lại khó sinh, lâm vào tình cảnh thập tử nhất sinh. Dì Mây bị đặt vào tình huống lựa chọn giúp hay không. Dì giúp vợ chú San vượt cạn, giúp con chú San có được tiếng khóc đầu đời để có được sự sống. Dì khóc đầy xót xa, tủi hờn và chờ mong.

+ Dì nhận lời nuôi con cho thím Ba trước khi thím mất vì vướng bom bi ở bến sông

- Dì Mây là người có niềm khát khao yêu thương, khát khao hạnh phúc mãnh liệt.

* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

- Tình huống truyện đặc sắc, đặt nhân vật vào những hoàn cảnh lựa chọn trớ trêu để bộc lộ tính cách, tâm hồn.

- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí đặc sắc, nghệ thuật độc thoại tài tình.

- Điểm nhìn, ngôi kể từ Mai – đứa cháu dì Mây khiến câu chuyện trở nên khách quan.

3. Kết bài:

- Nêu khái quát thành công của tác giả của tác giả qua việc xây dựng nhân vật.

- Từ nhân vật dì Mây, liên hệ và nêu cảm nghĩ của em về thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm trong cuộc sống hôm nay: biết tran trọng cuộc sống hoà bình; biết giữ gìn phẩm chất cao đẹp và mạnh mẽ vươn lên.

Bài viết tham khảo

Cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ta là ngọn lửa hun đúc nên biết bao thế hệ anh hùng, đồng thời cũng trở thành một trong những đề tài văn học, nghệ thuật hấp dẫn và nhiều cảm hứng nhất của giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Nhân vật Dì Mây trong truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" của nhà văn Sương Nguyệt Minh cũng là một trong những nhân vật bộc lộ được bản chất người lính đã trải qua cuộc chiến tranh, thấy được sự hy sinh mất mát, và nỗi đau khôn cùng của người phụ nữ Việt Nam.

“Người ở bến sông Châu” xoay quanh cuộc đời nhân vật dì Mây. Dì là cô gái trẻ trung xinh đẹp, tóc đen dài, óng mượt "Dì đẹp gái nhất làng, có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”. Trước khi đi xung phong dì có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú San. Nhưng phải chia tay nhau vì chú San đi học nghề ở nước ngoài. Còn dì thì xung phong làm cô y sĩ Trường Sơn. Đi qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, chịu đựng vết thương từ chiến trường với một cái chân chống nạng, dì Mây ngày trở về lại nhận thêm những thương tổn trong cuộc sống mới, đó là nỗi đau từ việc người yêu đi lấy vợ và cả nỗi ám ảnh về những đau thương của cuộc chiến mới qua, sự hy sinh của đồng đội… đã khiến Mây sống lặng lẽ, cô đơn trên chính bến đò quê hương mình.

Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã đẩy nhân vật dì Mây vào những tình huống vô cùng trớ trêu và đau khổ. Nhưng chính những lựa chọn khó khăn và lòng can đảm khi đối mặt với những thứ thách cuộc đời đã hé lộ cho ta thấy phẩm chất tốt đẹp của dì.

Dì Mây là một người giàu lòng yêu nước, dũng cảm, kiên cường trong cuộc chiến. Ở độ tuổi thanh xuân đẹp nhất, dì đã xung phong đi lính, làm nữ quân y sĩ Trường Sơn giúp đỡ bao đồng đội. Giữa mưa bom bão đạn, người con gái ấy đã vô cùng dũng cảm khi sẵn sàng lấy thân mình bảo vệ những thương binh "Dì Mây chắn cửa hầm che chở cho thương binh. Bom nổ người người lính công binh sốt rét tóc rụng trọc đầu vẫn lành lặn.." Từ một người con gái xinh đẹp trở thành một người tàn tật, vô cùng thương xót "Dì Mây bước tập tễnh, tóc Dì Mây rụng nhiều, xơ và thưa, dì có chân giả, chống nạng gỗ". Tuy nhiên, không vì điều đó mà dì lại cảm thấy tủi thẹn, dì luôn luôn cảm thấy tự hào, vì đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp cho cách mạng.

Dì Mây còn là một người giàu lòng vị tha, cao thượng. Từ trong bom đạn, Dì Mây trở về làng vào đúng ngày mà chú San - người yêu cô đi lấy vợ vì tưởng rằng cô đã hi sinh trên chiến trường khốc liệt. Ngày cô về, quê hương như rực màu đỏ, ngày hôm ấy trong mắt Mây “nước sông Châu đỏ quạch”,màu hoàng hôn đỏ ối”. Trong cái màu đỏ ấy có một đám rước dâu và có một cô gái lỡ đò. Lần lỡ đò ấy như lỡ cả một đời hạnh phúc của dì Mây, chú San đã cưới cô Thanh là giáo viên ở xóm bãi bên kia sông và đoạn nhân duyên giữa dì Mây và chú San đến đây cũng đã đi về hai ngả. Tình huống oái oăm đó đảo ngược tất cả khi cuộc trò chuyện trong buổi đoàn viên của dì Mây với gia đình diễn ra trong không khí vui là vui gượng, buồn đến xé lòng “Cả nhà nói chuyện thủng thẳng… dì Mây miễn cưỡng trả lời, bụng dạ cứ để ở bên nhà chú San”. Lòng dì Mây bao xót xa, bẽ bàng khi nhìn thứ ánh sáng hạnh phúc bên nhà người tình xưa và nhất là khi gặp lại chú San. Chìm đắm trong những kí ức ngọt ngào, Chú San xin dì Mây để hai đứa làm lại từ đầu. Thế nhưng cũng là phụ nữ dì Mây thấu hiểu nỗi thống khổ khi bị tổn thương, là người tổn thương dì Mây không muốn làm tổn thương thêm người khác và lời từ chối cất lên: “Thôi! thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ! Anh về đi!”. Lời chối từ đầy quyết liệt ấy cho ta thấy tấm lòng vị tha, cao thượng của dì Mây, dì nhận tổn thương về mình, đau khổ về mình chỉ vì không để một người đàn bà khác phải khổ. “Dì ném xoạch đôi nạng gỗ xuống sân, ôm mặt khóc hu hu. Dì khóc như chưa bao giờ được khóc. Bao oan khúc, tức tưởi dồn nén chặt vỡ òa ra”. Từ nay, hạnh phúc sẽ thuộc về người, sầu đau, thiệt thòi về phía mình. Ta cảm thương cho một cuộc đời, mến phục một tấm lòng cao thượng bao dung của người phụ nữ toả rạng giữa khổ đau nước mắt.

Sau ngày về vui ít đau nhiều, dì Mây “lại khoác ba lô ra lều cỏ” làm bạn với bến sống Châu trong quạnh quẽ, cô đơn. Dù có những lúc buồn ngồi đến thẫn thờ, không muốn ăn nhưng dì Mây vẫn gắng sống và làm được điều hữu ích. Sau một thời gian chèo đò phụ cho cha, dì nhận lời làm y tá trạm xá giúp đỡ người dân mặc những khó khăn đi lại của mình. Nhà văn tiếp tục đẩy nhân vật vào tình huống mà khiến dì phải đấu tranh lí trí và cảm xúc của bản thân. Đó là khi nghe tin vợ chú San khó sinh đẻ thiếu tháng, thai ngôi ngược lại tràng hoa quấn cổ dì đã ngay lập tức giúp đỡ không hề suy nghĩ, không sợ “vạ lây”. Mặc dù ở vào hoàn cảnh của dì việc làm đó chẳng hề dễ dàng, nhưng dì vẫn không chút e ngại, chần chừ, suy nghĩ gì mà lập tức tới giúp đỡ cô Thanh vượt qua cơn nguy hiểm, để mẹ tròn con vuông. Trái tim vị tha cao thượng của dì thêm một lần toả sáng.

Chiến tranh đã đi qua nhưng đã lấy đi rất nhiều thứ của nhân dân và cũng để lại biết bao hệ luỵ không đáng có. Bến sông Châu vẫn đầy bom bi chưa nổ và thím Ba vì đun te vướng bom bi nên đã qua đời, thằng Cún đã mất mẹ. Trước lời trăng trối của thím Ba, dẫu biết hoàn cảnh mình khó khăn nhưng dì vẫn nhận lời chăm sóc thằng Cún. Tấm lòng bao dung, vị tha của dì đã giúp thím Ba yên lòng nhắm mắt và giúp thằng Cún có chỗ tựa nương. Càng đi sâu tìm hiểu ta càng thương mến và cảm phục nhân cách cao đẹp của dì.

Thế nhưng, giống như bao người phụ nữ khác, dì Mây cũng khao khát được yêu thương và hạnh phúc. Niềm khao khát ấy thể hiện qua nỗi đau đớn, xót xa dằng dặc ám ảnh dì trong những ngày đầu về làng. Chiến tranh lấy đi nhan sắc, tuổi trẻ của dì nhưng ngày trở về chắc dì vẫn ôm trong lòng niềm vui sướng được gặp lại và dựng xây hạnh phúc với người mình yêu. Nhưng còn dì đau đớn hơn khi bao nhớ thương thăm thẳm chỉ còn trong kí ức “ngờ đâu ngày tiễn anh đi cũng là ngày li biệt”. Giọt nước mắt nức nở, tủi hờn của dì khi từ chối lời quay lại của chú San chính là giọt nước mắt giành cho tình yêu dang dở, cho hạnh phúc chẳng vẹn tròn của mình.

Những ngày sống ở lều cỏ bên bến sông, dì cứ tha thẩn, tư lự. Nhất là những đêm khuya “nghe tiếng trẻ sơ sinh khóc bên trạm xá vọng sang, dì Mây giật mình thon thót”. Đó phải chăng là cái giật mình của người con gái khát khao được làm vợ, làm mẹ; tưởng mình sẽ được làm vợ làm mẹ sau bao mất mát hi sinh mà không thành?. Và sau khi đỡ đẻ thành công cho cô Thanh – vợ chú San, dì Mây đã gục luôn xuống bàn đỡ đẻ và khóc tức tưởi. Dì Mây khóc như vậy bởi lẽ người được hưởng hạnh phúc ấy đúng ra là dì. Nhưng giờ đây, khi dì trở về, chú San đã lấy vợ. Đó cũng là lúc những hi vọng, chờ mong, niềm ao ước về một cuộc sống hạnh phúc cùng nhau đã bị dập tắt. Dì Mây khóc cho chính số phận mình, có lẽ giây phút đó, dì đã quá tủi thân và bởi những nỗi đau mà dì chịu đựng, dồn nén trong lòng quá lâu, chỉ trực chờ một khoảnh khắc nào đó, khoảnh khắc mà người con gái ấy không thể gồng mình lên chống đỡ được nữa thì giọt nước mắt ấy sẽ tuôn rơi.

Niềm khát khao hạnh phúc ấy có lẽ còn được thể hiện qua suy nghĩ của dì Mây ở phân đoạn cuối truyện, khi chú Quang - người thương binh năm nào được dì che chắn cửa hầm mà an toàn vượt qua bom đạn kẻ thù - đi tìm dì, khi dân xóm trại thì thầm đồn nhau rằng dì Mây sắp lấy chồng. Dì Mây thở dài “Ngày ấy, ở Trường Sơn có hẹn ước gì đâu. Bây giờ người ta đã là kĩ sư . Còn mình…liệu có nên không?”. Trong lời độc thoại ấy, ta thấy được một thoáng mặc cảm về bản thân của dì. Nhưng mặc cảm ấy sẽ là gì nếu không phải vì muốn được “lấy chồng” được yêu thương, hạnh phúc. Nỗi băn khoăn “liệu có nên không?” như gói ghém tất cả mong ước của người con gái ấy về một mái ấm gia đình. Mỗi đêm tiếng ru của dì hòa với cảnh đêm của miền sông nước và sự cảm nhận lắng nghe của những chú lính làm cầu. Sự thay đổi trong tiếng ru của dì Mây dường như cũng là sự thay đổi trong tâm trạng. Có lẽ, tâm trạng lúc đầu của dì Mây vẫn còn chất chứa sự tủi thân, nỗi buồn từ những chuyện chẳng vui nhưng dần dần, dì đã chấp nhận được sự thật và cùng chung sống với nó. Dì Mây không giống như những hình ảnh người phụ nữ xưa mà mang theo hơi thở hiện đại, cô là người luôn hy sinh và sống cho người khác nhưng tuyệt đối không phải là một người cam chịu, nhu nhược.

Bằng cách kể chuyện vô cùng độc đáo, người kể đã mượn giọng điệu nhân vật Mai, cô cháu gái của Mây để kể lại cuộc đời dì mình. Cách cách kể đó tạo nên sự chân thực, hấp dẫn, giúp người viết thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật. Không gian của truyện là bến sông Châu, gợi mở nhiều lớp nghĩa; thời gian nghệ thuật được nhòe mờ, hiện tại, quá khứ đan xen, đó là thời gian tâm trạng. Với nghệ thuật miêu tả tâm trạng tinh tế, ngói bút hiện thực của tác giả đã xoáy sâu vào góc khuất của chiến tranh với cái nhìn độc đáo, nỗi khổ đau bất hạnh của người phụ nữ. Song tấm lòng nhân đạo đã giúp nhà văn phát hiện được hạt ngọc đáng quý trong những tâm hồn khốn khổ. Hạt ngọc đẹp đẽ ấy toả ra từ bản lĩnh sống mạnh mẽ và trái tim nhân ái bao dung. Dì Mây vẫn sống, nỗi ám ảnh đau thương của cuộc chiến vẫn còn, người đọc sẽ dõi theo và hi vọng hạnh phúc sẽ mỉm cười với Mây.

Cuộc đời dì Mây để lại bao suy nghĩ trong lòng bạn đọc. Sau mỗi cuộc chiến tranh là nước mắt, nỗi đau. Thông qua nhân vật dì Mây và truyện ngắn, Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã mang đến cho chúng ta cái nhìn chân thực về số phận con người thời hậu chiến. Ở đó trong nước mắt đắng cay, con người vẫn sống mạnh mẽ, sống nhân hậu bao dung. Càng cảm thương cho dì Mây và những cuộc đời khổ sau chiến tranh, ta càng thêm trân trọng và giữ gìn cuộc sống hoà bình ngày hôm nay.

  • 39 lượt xem
Sắp xếp theo