Tác giả Nguyễn Tuân

I. Cuộc đời

1. Tiểu sử

- Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại phố Hàng Bạc nhưng quê ở làng Nhân Mục - Thượng Đình (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội).

- Ông sinh ra trong một gia đình trí thức, giữa lúc Hán học đã tàn lụi, thất thế, nhường chỗ cho Tây học.

- Thân sinh ông là cụ Nguyễn An Lan (còn được gọi là ông tú Hải Văn) – một nhà nho tài hoa nhưng sinh phải thời nho học suy vi, đậu khoa thi Hán học cuối cùng nhưng vẫn là nhà nho bất đắc chí như bao lớp nhà nho thời bấy giờ. Có lẽ khí tiết, tài hoa và cả nỗi niềm của cụ ảnh hưởng không nhỏ đến cá tính và văn nghiệp của Nguyễn Tuân sau này.

→ Là một tri thức yêu nước, giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng. Bối cảnh xã hội, không khí gia đình đặc biệt ấy đã in sâu đậm trong cá tính, tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn.

- Từ nhỏ, Nguyễn Tuân đã say mê và thuộc rất nhiều thơ của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến... Ông thích những thú vui, món ăn truyền thống, yêu sự cầu kì kiểu cách, gắn liền với những giá trị cổ truyền của dân tộc.

- Thời thanh thiếu niên ông cùng gia đình đi và sống ở nhiều nơi: Khánh Hòa, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, Thanh Hóa... “Cuộc đời Nguyễn Tuân hầu như nằm trong những chuyến đi” (Mai Quốc Liên). Năm 1929, ông bị đuổi học vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối chống giáo viên người Pháp nói xấu người Việt. Từ đây, Nguyễn Tuân bắt đầu hành trình của cuộc đời với nhiều khúc khuỷu, đầy chông gai.

- Sống trong cảnh nô lệ, thuộc địa, cũng giống như bao thanh niên trí thức khác, Nguyễn Tuân luôn tìm cách thoát khỏi cuộc sống bế tắc ấy. Năm 1930, ông và một nhóm bạn có cùng chí hướng vượt biên sang Lào, rồi bị bắt tại Băng Cốc (Thái Lan) và đưa vào trại giam Thanh Hóa. Thời gian này, Nguyễn Tuân rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc, sa vào con đường ăn chơi trụy lạc.

- Ở tù ra, Nguyễn Tuân làm thư ký cho một nhà máy đèn và bắt đầu sự nghiệp sáng tác. Ông thể hiện tài năng của mình trên các báo Trung Bắc tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tiểu thuyết thứ Bảy... Ngoài văn học, Nguyễn Tuân còn say mê diễn kịch, đóng phim và trở thành một trong những diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta.

- Cách mạng tháng Tám thành công đã làm thay đổi cuộc đời và tư tưởng Nguyễn Tuân. Ông hòa mình vào tập thể và tự nguyện đứng vào hàng ngũ nhà văn phục vụ cách mạng và trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học hiện đại. Sự hăng hái, chân thành và thuỷ chung với cách mạng đã đưa ông hòa nhập với mọi người, với đời sống và với cuộc kháng chiến của cả dân tộc.

- Từ năm 1948 đến năm 1956, Nguyễn Tuân giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ toàn quốc. Năm 1950 đến 1953, ông gia nhập Đảng tại chi bộ Hội Văn nghệ Việt Nam và cống hiến không ngừng nghỉ. Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp và hơn hai mươi năm chống Mĩ, Nguyễn Tuân vẫn sống và viết bằng nhiệt huyết của những ngày đầu đến với cách mạng. Làng văn Việt Nam vẫn còn lưu giữ những câu chuyện kể xúc động về sự nhiệt thành và dũng cảm của ông: dám xông vào nơi nóng bỏng nhất, để ghi chép, để viết, để mang lại cho đời những trang văn đẹp và độc đáo.

- Ngày 28 tháng 07 năm 1987, Nguyễn Tuân qua đời tại Hà Nội ở tuổi “thất thập cổ lai hy”. Cuộc đời một nghệ sĩ ưa xê dịch và xê dịch rất nhiều đã được mở ra và khép lại ngay trên mảnh đất rồng thiêng của Tổ quốc, giữa lòng Hà Nội thương yêu. Năm 1996, Nguyễn Tuân được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh – phần thưởng xứng đáng cho gần năm mươi năm lao động nghệ thuật nghiêm túc với những cống hiến quý giá cho nền văn học dân tộc.

1.2. Con người

(1) Cầu kì, kĩ tínhtinh tế trong việc thưởng thức ẩm thực và cái đẹp.

(2) Là trí thức giàu lòng yêu nước và dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng, gắn với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc: yêu tiếng Việt qua các sáng tác văn chương, yêu ca trù, dân ca, yêu phong cảnh đẹp và ẩm thực đất nước,...

(3) Ở Nguyễn Tuân có sự phát triển cao của ý thức cá nhân. Ông viết văn cũng là để khẳng định ý thức cá nhân của mình. Trước Cách mạng, ý thức cá nhân của Nguyễn Tuân đối lập với xã hội. Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đã dùng cá tính ấy phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến của dân tộc.

(4) Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa, uyên bác. Ông không chỉ viết văn mà còn am tường rất nhiều loại hình nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh… Nguyễn Tuân có kiến thức sâu rộng về văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Ông yêu Truyện Kiều của Nguyễn Du, yêu thơ Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến,… Ông thích các tác phẩm của Lỗ Tấn, Đôxtôiepxki, Sê-khốp, say mê trước những bức tranh của Picasso, Leona de Vinci,…Ông là một diễn viên kịch nói có tài và là diễn viên điện ảnh đầu tiên của Việt Nam. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.

- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng nghề nghiệp của mình. Ông coi lao động nghệ thuật là lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh”. Nguyễn Tuân đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để minh chứng cho quan niệm ấy.

⇒ Như vậy ở Nguyễn Tuân là sự hội tụ đầy đủ những tố chất của người nghệ sĩ: cá tính, nhân cách, tài năng, thông tuệ và uyên bác về kiến thức văn hóa, từng trải và lịch lãm về vốn sống, thái độ nghiêm túc trong lao động nghệ thuật… Tất cả cá tính, phong cách sống và con người Nguyễn Tuân đã tạo nên thành công cho những trang viết của ông. Nguyễn Tuân xứng đáng được nhiều người tôn vinh là “một định nghĩa rất chuẩn về người nghệ sĩ chân chính” (Nguyễn Minh Châu)

II. Sự nghiệp

1. Hành trình sáng tác

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân chia thành hai giai đoạn: trước Cách mạng tháng Tám và sau Cách mạng tháng Tám.

a) Trước Cách mạng tháng Tám.

- Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông bắt đầu cầm bút từ đầu những năm 30 và đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng.

  • Từ năm 1932 đến năm 1937 có thể coi là chặng thử bút, dò đường của Nguyễn Tuân. Năm 1937, ông cho ra mắt tác phẩm truyện ngắn Một vụ bắt rượu lậu.
  • Đến năm 1939, độc giả thực sự biết đến tên tuổi Nguyễn Tuân qua tập truyện ngắn Vang bóng một thời. Đây là tác phẩm đánh dấu mốc quan trọng cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn.

- Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thành công ở một số thể loại:

  • Truyện ngắn: Một vụ bắt rượu lậu (1937), Vang bóng một thời (1940), Xác ngọc lam (1943).
  • Tùy bút: Một chuyến đi (1938), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943).
  • Phóng sự: Ngọn đèn dầu lạc (1939), Tàn đèn dầu lạc (1941).
  • Tiểu thuyết: Thiếu quê hương (1940).

- Sống trong chế độ thuộc địa ngột ngạt, bức bối, cũng như bao văn nghệ sĩ khác, Nguyễn Tuân luôn cảm thấy bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời. Ông đã tìm lối thoát cho mình vào những chuyến đi với chủ nghĩa Xê dịch, tìm về vẻ đẹp của một thời vang bóng và đời sống trụy lạc. Đó cũng là ba nội dung chính trong đề tài sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Tuân.

b) Sau Cách mạng tháng Tám.

- Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới đối với dân tộc ta, đồng thời cởi trói tư tưởng cho giới văn nghệ sĩ. Nguyễn Tuân không còn bất hòa với xã hội mà đã trở về sống hòa hợp giữa cuộc đời, bắt đầu từ đây tạo lên những bản hòa tấu vang dội cho nền văn học Việt Nam.

- Trong không khí cả nước ra trận, Nguyễn Tuân cũng hăng hái tham gia kháng chiến, đem ngòi bút phục vụ cho chiến đấu. Ông đã cho ra đời một khối lượng tác phẩm phong phú thuộc nhiều thể loại, đặc biệt là tùy bút.

  • Truyện ngắn: Chùa Ðàn (1946), Thắng càn(1963), Chú Giao làng Seo (1953).
  • Tùy bút, bút ký: Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Bút ký đi thăm Trung Hoa (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, Tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988).

⇒ Có thể thấy, cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng, những sáng tác của Nguyễn Tuân đều thể hiện một phong cách văn chương độc đáo, tài hoa, uyên bác. Nếu như trước Cách mạng, người ta thường nhắc nhiều đến tập Vang bóng một thời thì sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đã tiếp tục phát huy sở trường và đặc biệt thành công ở thể loại tùy bút và được mệnh danh là “ông vua tùy bút”. Với những đóng góp to lớn ấy, Nguyễn Tuân xứng đáng là một trong số các tác gia tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.

2. Phong cách nghệ thuật

- Nhà nghiên cứu Nguyễn Ðăng Mạnh khẳng định: “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”

- Ngông là biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định kiến của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả, quan sát chủ yếu ở phương diện văn hóa, thẩm mỹ.

a. Trước Cách mạng tháng Tám:

- Nguyễn Tuân đi tìm những cái đẹp của thời xa xưa còn vương sót lại và viết thành tập truyện ngắn Vang bóng một thời.

  • Điểm qua những tác phẩm của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám, ta thấy những nhân vật yêu thích của ông thời kỳ này đã phần là những nho sĩ tài tử, không chấp nhận thực trạng xã hội đen tối ngột ngạt, xã hội bóp nghẹt sự sống, đẩy con người vào đường cùng, cho dù họ muốn thoát ra bao nhiêu thì lại mắc vào sâu bấy nhiêu.
  • Chính vì thế, họ đã quay lưng lại với xã hội ấy để tìm cho mình một lối đi riêng, bằng cách đắm mình trong những thú chơi tao nhã như thả thơ, đánh thơ, chơi hoa, uống trà.
  • Đối với quê hương đất nước, những con người tài hoa tài tử ấy, dù tĩnh tại hay xê dịch đều là những kẻ ăn tạm, ở nhờ, họ là những người sinh ra dường như chỉ để ngắm cảnh, thưởng ngoạn chứ không chịu gánh lấy một trách nhiệm xã hội nào.

⇒ Quan niệm này của Nguyễn Tuân thể hiện rõ nhất ở những tác phẩm trước Cách mạng tháng tám, đôi khi vẫn rơi rớt ở một vài tác phẩm sau này, khi nhà văn đã đi theo con đường cách mạng.

- Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, những trang viết về Huấn Cao quả thực là đẹp nhưng đâu phải là đẹp thuần túy, không khuynh hướng.

  • Ở Huấn Cao là một con người toàn vẹn, lấy nguyên mẫu từ hình tượng của Cao Bá Quát, một lãnh tụ nông dân chống lại triều Nguyễn. Huấn Cao, hiện thân của Cao Bá Quát với văn chương vô tiền hán, còn nhân cách một đời chỉ cúi lạy trước hoa mai. Nhân vật Huấn Cao là con người đại diện cho cái đẹp: đẹp từ cái tài viết chữ của một người nghệ sĩ, cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm lòng trong sáng của kẻ biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao với tư cách là một nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ có một không hai. Chữ ở đây không phải chỉ là ký hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Chữ của ông Huấn vuông lắm cho thấy ông có khí phách hiên ngang. Ý chí kiên cường và khát vọng, hoài bão tung hoành bốn bể. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời.
  • Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê không hề có chút trầy xước nào. Khi biết được tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục, Huấn Cao không những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt lên: ''Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta đâu biết một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ''. Quang cảnh cho chữ thật lạ, đúng là cảnh tuợng xưa nay chưa từng có, trong một buồng tối chật hẹp, ẩm uớt tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân gián. Người cho chữ - kẻ tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng lại là người có quyền uy nhất trong nhà ngục này đang tô đậm từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Trong khi đó, viên quản ngục lại khúm núm, cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên tấm lụa óng. Thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực. ''Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn lừa lọc, thì tính cách dịu dàng, biết trọng người ngay của viên coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn độn xô bồ''. Đây là nét chữ cuối cùng của người nho sĩ tài hoa, những nét chữ kia chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đầy nước mắt thương cảm của bạn đọc.
  • Vẻ đẹp nhân cách của Huấn Cao là vẻ đẹp thống nhất giữa cái tài và cái tâm. Trong cái tài đã ánh lên cái tâm. Có tài, có tâm đã đẹp lắm rồi mà cái tài, cái tâm lại đi liền với nhau đã tạo nên một Huấn Cao mang đầy đủ phẩm chất của con người cao quý trong xã hội. Huấn Cao chính là một đối tượng thẩm mĩ trong văn học nghệ thuật, khiến cho người đọc hôm nay và thế hệ mai sau cảm thấy xót xa, day dứt, trăn trở, tiếc nuối không nguôi. Huấn Cao chính là vẻ đẹp thiên lương con người không gì tiêu diệt nổi, của một nhân cách hiên ngang bất khuất tỏa sáng giữa đêm tối của một xã hội ngục tù.

- Ngoài ra, ông còn học theo chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực... Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội.

⇒ Chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật mà biểu hiện là thú chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá nhân trước tấn kịch xã hội. Nó còn bao hàm cái khí khái của người trí thức yêu nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân phận nô lệ.

b. Sau Cách mạng tháng Tám:

- Phong cách Nguyễn Tuân có những đổi thay quan trọng. Vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân đại chúng. Nguyễn Tuân không còn đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, lối văn vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Đặc điểm dễ nhận thấy trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là mới lạ, không giống ai. Mọi thứ Nguyễn Tuân bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn “chưa ai khơi” nên thường tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu.

- Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những “đấng tài hoa” và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật.

- Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều tất yếu. Dường như ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Thể tùy bút trong văn chương Nguyễn Tuân đã đạt đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống.

⇒ Xét đến cùng, phong cách riêng không trộn lẫn, không ai bắt chước được của tùy bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu văn chương. Tóm lại, trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn mà khi nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác.

  • 6 lượt xem
Sắp xếp theo