Phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX
I. Phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỉ XIX. Quốc tế thứ hai
1. Phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỉ XIX
- Vào 30 năm cuối thế kỉ XIX, trong các nước tư bản Âu - Mĩ, mâu thuẫn giữa tư sản và vỏ sản ngày càng trở nên sâu sắc.
Ở Anh, nhiều cuộc bãi công lớn đã nổ ra, đặc biệt là cuộc đấu tranh của công nhân khuân vác Luân Đôn đã buộc chủ phải tăng lương (năm 1889).
Ở Pháp, năm 1893 công nhân giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội.
Ngày 1 - 5 - 1880, ở Mĩ hơn 350 000 công nhân đình công, xuống đường biểu tình đòi ngày làm 8 giờ.
Cuộc đình công lan ra trên 11.000 nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ; đặc biệt là cuộc biểu tình của 40 vạn công nhân Si-ca-gô. Tuy bị đàn áp, nhưng đã có 50 000 người được quyền làm việc 8 giờ/ngày.
- Từ năm 1869. ngày 1 - 5 trở thành ngày Quốc tế lao động.
- Sự phát triển của phong trào công nhân cùng với ảnh hưởng sâu rộng của chủ nghĩa Mác dẫn tới sự thành lập các tổ chức chính trị độc lập của giai cấp công nhân ở mỗi nước.
Năm 1875. Đảng Xã hội dân chủ Đức ra đời.
Năm 1379, Đảng Công nhân Pháp được thành lập.
Năm 1883, Nhóm Giải phóng lao động Nga hình thành.
2. Quốc tế thứ hai (1889-1914)
- Sự ra đời của những tổ chức công nhân ở các nước đòi hỏi thành lập một tổ chức quốc tế mới thay thế cho Quốc tế thứ nhất.
Ngày 14 - 7 - 1889, họp đại hội ở Pa-ri, tuyên bố thành lập Quốc tế thứ hai.
- Đại hội đã thông qua các nghị quyết quan trọng:
Sự cần thiết phải thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở mỗi nước.
Đấu tranh giành chính quyền, đòi ngày làm 8 giờ
Lấy ngày 1- 5 hằng năm làm ngày đoàn kết và biểu dương lực lượng của giai cấp vô sản thế giới.
- Hoạt động của Quốc tế thứ hai trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn một (1889 - 1895): Dưới sự lãnh đạo của Ăng-ghen, Quốc tế thứ hai đã có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới.
Giai đoạn hai (1895 - 1914): Sau khi Ăng-ghen tử trận (1895), các đảng trong Quốc tế thứ hai không những xa rời đường lối đấu tranh cách mạng, thỏa hiệp với tư sản. không tích cực chống chiến tranh đế quốc, mà còn đẩy quần chúng nhân dán vào những cuộc chiến tranh vì quyền lợi của bọn đế quốc gãy chiến.
- Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, Quốc tế thứ hai đi đến chỗ phân hóa và tan rã. Ngọn cờ đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác, từ đây đã thuộc về Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga với lãnh tụ Lê- nin.
II. Phong trào công nhân Nga và cuộc cách mạng 1905-1907
1. Lê- nin và việc thành lập đảng vô sản kiểu mới ở Nga
- V. Lê- nin (22/4/1870) trong một gia đình nhà giáo tiến bộ.
Ngay từ thời sinh viên, Lê- nin đã tham gia phong trào cách mạng Nga hoàng.
Năm 1893, Lê - nin đến thủ đô Pê- téc- bua và trở thành người lãnh đạo nhóm công nhân macxit ở đây.
Sau khi bị bắt và bị đày đi Xi-bia, năm 1903 thành lập Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga với Cương lĩnh cách mạng.
- Cương lĩnh khẳng định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ chính quyền của giai cấp tư sản, thành lập chuyên Chính vô sản. Trước một là đánh đổ chế độ Nga hoàng, thành lập nước cộng hòa, thi hành những cải cách dân chủ. giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân.
- Lê-nin và Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga dần dần trở thành lực lượng lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nga.
2. Cách mạng Nga 1905-1907
Đầu thế kỉ XX, nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Nhiều nhà máy bị đóng cửa, số công nhân thất nghiệp tăng, tiền lương giảm sút, ngày lao động kéo dài từ 12 đến 14 giờ, điều kiện sống rất tồi tệ.
Chế độ Nga hoàng lại còn đẩy nước Nga vào cuộc chiến tranh với Nhật Bản (1904 - 1905) để tranh giành thuộc địa.
Từ cuối năm 1904, nhiều cuộc bãi công đã nổ ra với các khẩu hiệu "Đả đảo chuyên chế", “Đả đảo chiến tranh”, “Ngày làm 8 giờ Lớn nhất là phong trào của công nhân, nông dân và binh sĩ. diễn ra trong những năm 1905 - 1907.
- Ngày chủ nhật 9-1-1905,14 vạn công nhân Pê-téc-bua và gia đình không mang theo vũ khí kéo đến trước Cung điện Mùa Đông.
Nga hoàng Ni-cô-lai II ra lệnh cho quân đội và cảnh sát nổ súng vào đoàn biểu tình. Gần 1000 người chết, 2000 người bị thương.
Hưởng ứng lời kêu gọi của những người bôn-sê-vích, công nhân nổi dậy cầm vũ khí, dựng chiến lũy khởi nghĩa.
- Tháng 5 - 1905, nông dân nhiều vùng nổi dãy, đánh phá dinh cơ của địa chủ phong kiến, thiêu hủy văn tự, khế ước, lấy của người giàu chia cho người nghèo.
- Tháng 6 - 1905, thủy thủ trên chiến hạm Pô-tem-kin khởi nghĩa. Nhiều đơn vị hải quân, lục quân khác cũng nổi dậy.
Đỉnh cao của cuộc đấu tranh là khởi nghĩa vũ trang bùng nổ ỏ Mát-xcơ-va tháng 12 - 1905, trong gần hai tuần lễ.
Cuộc khởi nghĩa bị thất bại vì lực lượng quá chênh lệch. Phong trào đấu tranh trên toàn nước Nga còn kéo dài đến giữa năm 1907 mới chấm dứt.
⇒ Tuy thất bại, song Cách mạng Nga 1905 - 1907 đã giáng một đòn chí tử vào nền thống trị của địa chủ và tư sản:
Làm suy yếu chế độ Nga hoàng và là bước chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ diễn ra vào năm 1917.
Cách mạng Nga 1905 - 1907 đã có ảnh hưởng đến phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.