a. Ta thường nghe: Kỉ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!
(Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ)
- Câu chủ đề: Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!
→ Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn → Đoạn văn quy nạp.
→ Tác dụng: Các câu đầu nêu những tấm gương về các bậc trung nghĩa. Từ đó câu chủ đề ở cuối đoạn văn mới có cơ sở để nhắc nhở binh sĩ về chân lí: những tấm gương trung nghĩa sẽ được sử sách lưu danh, từ đó gián tiếp khơi dậy ý thức trách nhiệm của đấng nam nhi trong xã hội.
b. Đồng phục không chỉ đẹp mà còn góp phần tạo nên bản sắc của mỗi trường. Cậu này là học sinh Trường THCS Lê Quý Đôn, bạn ấy thuộc Trường THCS Lương Thế Vinh, còn cô bé kia học ở Trường THCS Đặng Thai Mai,… tất cả đều được nhận ra nhờ bộ đồng phục mà họ mặc. Trong cuộc thi “nhóm bạn lí tưởng” ở huyện, “màu cờ sắc áo” không chỉ thể hiện ở tài trí của năm bạn trong đội hình thi đấu trên sân khấu, mà còn ở các nhóm cổ động viên tưng bừng, nổi bật trong bộ đồng phục của trường mình trên khán đài.
Dẫn theo Ngữ văn 6, tập hai
(Kết nối tri thức với cuộc sống), NXB Giáo dục Việt Nam, 2021, tr. 67)
- Câu chủ đề: Đồng phục không chỉ đẹp mà còn góp phần tạo nên bản sắc của mỗi trường.
→ Câu chủ đề ở đầu đoạn → Đoạn văn diễn dịch.
→ Câu chủ đề khẳng định đồng phục làm nên bản sắc của mỗi trường, là định hướng để các câu tiếp theo triển khai nội dung: phải làm rõ bản sắc được thể hiện cụ thể như thế nào.
(1) Một cô Tấm (trong truyện “Tấm Cám”) bao lần bị hại, cuối cùng vẫn được làm hoàng hậu, nhưng mụ dì ghẻ và Cám – những kẻ lắm mưu mô tàn ác thì bị trừng phạt đích đáng.
(2) Một Thạch Sanh (truyện “Thạch Sanh”) chất phác, thật bụng tin người, dẫu trải qua bao khổ nạn, oan khuất rồi đến lúc cũng cưới được công chúa và lên ngôi, còn Lý Thông lừa lọc, xảo trá thì trời đất không dung tha.
(3) Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo là ước mơ công bằng được nhân dân gửi gắm vào truyện cổ tích.
(4) Một người em (truyện “Cây khế”) thật thà, hiền lành, bị anh đối xử bất công, ai ngờ cuộc sống về sau lại giàu sang hạnh phúc, trong khi người anh tham lam thì bỏ mạng giữa biển khơi.
→ Câu (3) là câu nêu vấn đề có tính chất khái quát, không đề cập riêng đến nhân vật nào như câu (1), (2), (3). Vì vậy, câu chủ đề là câu số (3). Các câu còn lại có thể sắp xếp linh hoạt do có tính chất giống nhau (đều nói về đặc điểm và số phận của các nhân vật cụ thể ở một số truyện cổ tích) → Đoạn văn diễn dịch.
→ Ngược lại, nếu đặt câu (3) ở cuối, đoạn văn trở thành đoạn văn quy nạp.
Gợi ý triển khai
- Lòng yêu nước có thể bắt nguồn từ tình yêu với những lũy tre làng, yêu dòng sông hiền hòa chảy quanh làng mạc, yêu mùi thơm của lúa rạ,... → Tình yêu bắt nguồn từ những điều nhỏ bé, giản dị, thân thuộc nhất.
- Từ những tình cảm nhỏ bé sẽ dẫn dắt, tôi luyện cho chúng ta những tình cảm lớn lao, vĩ đại hơn.