a. Luận điểm chưa nêu được nội dung khái quát. Các câu văn sau đó có nội dung trùng lặp.
b. Không có luận điểm khái quát nội dung của đoạn văn.
c. Luận điểm của đoạn văn không có liên kết với luận cứ phía sau.
a. Luận điểm: Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc khắc họa cảnh sắc của bức tranh Thu điều.
b. Luận điểm: Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh.
c. Luận điểm: Văn học dân gian là kho tàng kinh nghiệm của ông cha ta.
a. Trích dẫn sai luận cứ: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót” thành “Nắng xuống trời lên xanh bát ngát” (Tràng Giang, Huy Cận). Từ đó dẫn đến việc phân tích ý nghĩa câu thơ cũng sai.
b. Luận cứ đưa ra chưa chính xác: “Đất nước sau hơn hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được thắng lợi hoàn toàn” - hai thế kỷ bị phong kiến nước ngoài đô hộ là sai. Luận cứ cũng chỉ nêu về Hai Bà Trưng, chưa thể làm sáng tỏ cho luận điểm.
c. Một số luận cứ không thống nhất với luận cứ còn lại: “Ải Chi Lăng mãi là mồ chôn quân xâm lược”, “Cửa Bạch Đằng lập chiến công lừng lẫy non sông”
a.
b. Bổ sung thêm một số dẫn chứng như Ngô Quyền, Lê Lợi, Trần Quốc Tuấn…
c.
a. Các luận cứ trình bày không có sự liên kết, logíc.
b. Luận điểm không rõ ràng. Luận cứ chỉ tập trung vào “cái đói” trong tác phẩm viết về đề tài nông thôn và nông dân của Nam Cao.
c. Luận điểm không rõ ràng. Luận cứ dùng để mở rộng đề tài không phù hợp với phạm vi đề tài nêu trong những câu trước: “ Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ” (Thu hứng).
a. Từ xưa đến nay, vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ luôn là đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học trung đại Việt Nam nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,... Nhưng người phản ánh một cách sâu sắc nhất về vẻ đẹp và số phận người phụ nữ là Nguyễn Du.
b. Trong các tác phẩm của mình, Nam Cao viết nhiều về cái đói.
c. Mùa thu là đề tài gợi nhiều cảm hứng cho các thi nhân. Ta biết đến Đỗ Phủ với bức tranh thu nhuốm nỗi sầu vô biên, một Nguyễn Du với rừng phong thu nhuốm màu chia ly. Nhưng để lại ấn tượng sâu sắc nhất phải kể đến Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, với chùm thơ thu: Thu Vịnh, Thu Điếu, Thu Ẩm.
Tổng kết:
Khi viết văn nghị luận, nên chú ý tránh một số lỗi: