Kiểm tra tổng hợp cuối năm

I. Phần trắc nghiệm

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

C

B

A

C

D

D

D

D

C

D

B

B

II. Phần tự luận

Đề 1

Câu 1: Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

- Nhà văn Tô Hoài sinh năm 1920, mất năm 2014. Tên khai sinh là Nguyễn Sen. Ông sinh ra tại quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường. Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận… Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1941), truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Cát bụi chân ai (hồi ký, 1992), Chuyện cũ Hà Nội (ký sự, 2010)...

- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của nhà văn Tô Hoài. Truyện được viết vào năm 1952 và là sản phẩm của chuyến thâm nhập thực tế, “cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó” với đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc suốt 8 tháng của Tô Hoài trên núi cao đến các bản làng mới giải phóng.

Câu 2:

“Vợ nhặt" là một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt" là đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn". Có thể nói, đây chính là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.

Nghệ thuật xây dựng tình huống là việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, cá tính. Trong tác phẩm, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú.

Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai lí do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo túng, xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng xưa nay con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà nay bỗng dưng lấy được vợ, mà là theo không hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy, khi cái đói đang hoành hoành, khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của các người" thì một người như Tràng đến nuôi thân còn chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô lí và không thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó là vợ Tràng họ bắt đầu phỏng đoán:

“- Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên? - Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thảm đâu, – Quái nhỉ? Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.

– Hay là vợ anh cu Tràng? Ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chỉ ta thèn thẹn hay đáo để". . Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. Hình như họ hiểu được đội phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ". Nhưng rồi ngay sau đó lại là nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước. cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?". MÀ Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời lí giải cho việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc: “Muốn ăn cơm trắng với giò này, Lại đây mà đẩy xe bò với anh" . |

Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại thị “xưng xía": “ Hôm ấy leo léo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt", rồi không ngần ngại ngồi xuống làm một chấp hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.

- Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Thử tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chọn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng". Nhưng rồi hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy con trai về cùng với người đàn bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai óan, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Bà hiểu cả tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hi vọng đan xen, “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?". Bản thân người đàn bà, sau những phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân về tà áo đã rách bợt". Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện thông qua tình huống nụ cười và giọt nước mắt đan xen ấy mà lên án gay gắt bọn phát xít thực dân phong kiến và tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng: người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.

Tình huống ấy cũng chính là môi trường cho nhân vật bộc lộ đặc điểm tính cách cũng như đời sống tinh thần của mình. Tràng tỏ ra là một anh thanh niên chất phác, hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có đời sống nội tâm có phần hơi đơn giản, Bà cụ Tứ mang trong mình sự từng trải, nghĩ trước sau chu toàn. Tràng “nhặt" được vợ, bà vừa mừng vừa lo. Bà hiểu cái tao đoạn mà bà và những người xung quanh đang phải trải qua, hiểu vị trí của những người dân ngụ cư trong quan niệm của người khác, hiểu được tình thế oái oăm, đèo bòng của con trai mình. Hơn thế nữa, bà cũng hiểu và cảm thông cho hành động theo không của người đàn bà “Người ta có gặp lúc khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình". Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, cũng chính bà là người gợi ra tương lai tươi sáng, gieo vào trong lòng đôi vợ chồng trẻ niềm hi vọng. Còn ở cô vợ nhặt" thì tính cách có sự thay đổi đến bất ngờ: từ một người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, chị khác hẳn trong tư cách một người vợ, một người quen, dịu dàng, biết thu vén cho cuộc sống gia đình.

Thông qua tình huống truyện đặc sắc Kim Lân cũng muốn thể hiện khát vọng của con người có thể chiến thắng hoàn cảnh để sống và có được hạnh phúc. Người lao động, dù trong tình huống bi thảm đến đâu, ngay cả khi gần kề cái chết vẫn khát khao hướng về ánh sáng, tin tưởng ở sự sống và tương lai. Giá trị nhân văn của tác phẩm là ở đó. Câu chuyện kết thúc với những ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến, Tràng “bông vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.." và anh bắt đầu hi vọng: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Người mẹ già cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường", cái mặt bủng beo u ám “rạng rỡ hẳn lên". Và tất nhiên, nhiều nhất phải nói tới sự thay đổi của người “vợ nhặt", giờ đây đã trong vai trò của một người vợ hiền đảm đang. Hình ảnh đám người đi phá kho thóc cứ gieo vào trong lòng Tràng đầy ám ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn cũng sẽ tất yếu xảy ra.

“Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống. Chính điều này đã góp phần vào việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng tính hấp dẫn trong tác phẩm.

Đề 2

Câu 1: Giới thiệu khái quát về tác giả Ơ. Hê - minh -uê và tác phẩm Ông già và biển cả.

- Ơ-nít Hê-minh-uê (1899 - 1961) là một nhà văn người Mỹ đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn xuôi hiện đại phương Tây. Ông bước vào đời với nghề viết báo, làm phóng viên mặt trận cho tới kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Các tác phẩm của ông: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940)... Ông được tặng giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1954.

- Tác phẩm Ông già và biển cả: Ông già và biển cả (1952) là một kết tinh tiêu biểu của những nét mới mẻ trong lối kể chuyện của Huê-minh-uê.

Câu 2: “Có ba điều trong cuộc đời mỗi con người nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội”. Nêu suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên.

a. Thời gian:

- Khái niệm:

  • Thời gian là khái niệm trừu tượng, trôi qua từng ngày, ta không cảm nhận thời gian một cách trực quan như nhìn hay chạm vào, ta cảm sự trôi chảy của thời gian qua sự thay đổi của sự vật tồn tại xung quanh mình.
  • Thời gian là vô giá đối với tất cả mọi người, là thứ tài sản ta có nhiều nhất thế nhưng thực tế không phải ai cũng nhận ra tầm quan trọng của nó.

- Bình luận:

  • Rất nhiều người lầm tưởng thời gian là vô hạn nên lấy sự lười biếng để hoang phí tuổi thanh xuân.
  • Thời gian rất vô tình, không vì ai mà trôi nhanh hơn cũng không vì ai mà chậm lại.
  • Con người cần biết tận dụng tuổi trẻ để sống và làm những việc có ý nghĩa.

b. Lời nói:

- Vô hình vô dạng, không ai có thể cầm nắm, chính vì thế một khi đã phát ra người ta chẳng bao giờ có thể thu lại được, nhưng lại dễ dàng in sâu trong trái tim người khác.

- Lời nói có thể khiến người ta tổn thương sâu sắc nhưng cũng có thể khiến người ta hạnh phúc vô bờ, điều đó tùy thuộc vào cách nói.

- Lời nói thể hiện tầm hiểu biết, sự thông tuệ và tính cách của mỗi cá nhân và cách nói chuyện sẽ quyết định đến 80% thiện cảm của người đối diện dành cho bạn.

c. Cơ hội:

- Một bước đệm để con người chạm đến với lý tưởng ước mơ và giới hạn của bản thân. Mỗi chúng ta không thể gặp quá nhiều cơ hội trong đời và cơ hội cũng không lặp lại hoàn toàn ở những thời điểm khác nhau bao giờ.

- Mỗi một đời người đều đã từng bỏ qua rất rất nhiều cơ hội, thế nhưng không phải việc lựa chọn bỏ qua nào cũng là sai lầm và để lại nuối tiếc, mà có khi nó lại là bước đệm để sản sinh những cơ hội tuyệt vời khác.

- Cần suy nghĩ thật thận trọng mỗi khi quyết định từ chối một cơ hội nào đó.

  • 393 lượt xem
Sắp xếp theo