- Nguyễn Duy (sinh năm 1948) tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ.
- Quê ở xã Đông Vệ, thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa).
- Mẹ mất sớm, ông sống với bà ngoại từ nhỏ nên đối với nhà thơ bà chính là người gần gũi, thân thuộc nhất.
- Năm 1966, Nguyễn Duy nhập ngũ và trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu trên nhiều mặt trận.
- Cuối năm 1975, ông cùng đơn vị vào tiếp quản Vũng Tàu.
- Năm 1976, ông chuyển vào công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh, làm biên tập viên của báo Văn nghệ ở phía Nam.
- Nguyễn Du sáng tác thơ từ rất sớm, khi vẫn còn là học sinh phổ thông.
- Năm 1973, ông đại giải Nhất tại cuộc thi thơ báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam.
- Thơ của ông có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trữ tình với chất thế sự đậm đặc.
- Nguyễn Duy cũng là một trong số không nhiều cây bút hiện nay góp phần làm mới thể lục bát bằng những tìm tòi theo hướng hiện đại, tạo nên nét độc đáo hấp dẫn trong cấu trúc, hình ảnh và ngôn ngữ của thể thơ truyền thống này.
- Năm 2007, Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm chính:
Bài thơ được viết năm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về quê hương, được sống lại những hồi ức vui buồn của thời thơ ấu.
Gồm 2 phần:
- Cái tôi của tác giả thời nhỏ được tái hiện:
- Nét quen thuộc: Tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ một cách chân thực, sinh động.
- Nét mới: Những kỉ niệm không đẹp đẽ như “ăn trộm nhãn chùa Trần” cũng được tái hiện.
⇒ Đây là sự đổi mới trong cách nhìn, cách cảm của những tác giả sau 1975: Dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, dám nói ra sự thật từ góc nhìn không thuận chiều.
- Bà là một phần của tuổi thơ, gắn bó với nhiều kỉ niệm: níu váy bà đi chợ Bình Lâm…
- Nhận thức được sự vô tư tâm khi còn là một cậu bé:
⇒ Vô tư không nhận ra những nỗi vất vả của người bà.
- Tình thương bà của nhà thơ khi đã trưởng thành:
⇒ Sự trân trọng, yêu thương dành cho bà.
- Cách thể hiện tình thương bà của Nguyễn Duy: bộc lộ tình cảm một cách trực tiếp qua ngôn từ, không thông qua hình ảnh biểu tượng nào.
- So sánh Bằng Việt và Nguyễn Duy:
- Thời thơ ấu: câu cá , bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật,ăn trộm nhãn, đi chơi đền,chân đất đi đêm, níu váy bà đòi đi chợ...
⇒ Sự tinh nghịch, hiếu động, hồn nhiên.
- Cách nhìn: thành thực, thẳng thắng, tự nhiên, đậm chất quê, khác với lối thi vị hoá thường gặp
⇒ Thể hiện cách nhìn mới mẻ.
- Hình ảnh người bà của nhân vật trữ tình: mò cua xúc tép ,gánh chè xanh những đêm lạnh, bán trứng ga Lèn ngày bom Mỹ dội, năm đói củ dong riềng luộc sượng...
⇒ Cơ cực, tần tảo, yêu thương.
- Tình cảm của nhà thơ khi nghĩ về bà ngoại:
″Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi″
- Sử dụng thủ pháp đối lập:
⇒ Người cháu thấu hiểu nỗi khổ cực của bà; thể hiện nỗi ngậm ngùi, sự ân hận muộn màng khi bà không còn nữa.
- Sử dụng phép so sánh đối chiếu:
⇒ Tôn vinh, ngợi ca tấm lòng nhân từ cao cả của bà. Khẳng định sự bất diệt của hình ảnh người bà.
- Giọng điệu: thành thực, thẳng thắng.Vì thế tạo được dư vị về nỗi ngậm ngùi, đắng xót , ân hận pha lẫn những suy niệm đầy màu sắc triết lí về sự sống con người.
Tổng kết