- Nêu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Việt Nam qua “Người lái đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
a Luận điểm 1: Khái quát về tác giả, tác phẩm.
Tác giả Nguyễn Tuân và “Người lái đò Sông Đà”.
- Tác giả:
- Tác phẩm:
Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường:
- Tác phẩm:
b. Luận điểm 2: Hình ảnh dòng sông trữ tình, thơ mộng trong “Người lái đò sông Đà”.
- Sông Đà trữ tình, thơ mộng qua dáng vẻ.
- Nước Sông Đà thay đổi theo mùa và màu sắc không giống như những dòng sông khác trên đất nước ta.
- Hai bên bờ sông hoang dại như mang nỗi niềm cổ tích từ ngàn xưa.
- Trên bờ sông có hình ảnh con nai ngơ ngác
- Trên mặt nước có hình ảnh con cá dầm xanh quẫy vọt.
- Sông Đà trữ tình, thơ mộng qua tâm hồn.
- Vẻ đẹp của người cố nhân:
* Luận điểm 3: Hình ảnh dòng sông trữ tình, thơ mộng trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được gợi tả chủ yếu qua góc nhìn địa lí và góc nhìn văn hóa.
Vẻ đẹp từ góc nhìn địa lý: thủy trình của sông Hương được tái hiện ở ba chặng.
- Sông Hương giữa núi rừng Trường Sơn.
- Sông Hương trong không gian Châu Thổ, Châu Hóa.
- Sông Hương trong không gian kinh thành Huế.
- Vẻ đẹp từ góc nhìn văn hóa được chứng minh qua âm nhạc, thi ca và huyền thoại.
* Luận điểm 4: vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam qua vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà và sông Hương.
- Hai dòng sông đại diện cho hàng nghìn con sông trên khắp đất nước với những vẻ đẹp đa dạng.
- Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông cũng chính là biểu trưng của vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Nam.
- Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Việt Nam đều được cảm nhận bằng trái tim con người Việt Nam nặng lòng với quê hương, đất nước như “Bên kia Sông Đuống” của Hoàng Cầm, dòng sông Kinh Thầy đi vào trang thơ của Trần Đăng Khoa.
Khẳng định vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của hai dòng sông: sông Đà và sông Hương Giang, khơi gợi tự hào, trân trọng với dòng sông trên quê hương, đất nước Việt Nam.
Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
(Nguyễn Đình Thi)
Đất nước, con người Việt Nam luôn là nguồn cảm hứng bất tận để các nhà thơ, nhà văn- những người nghệ sĩ chân chính thỏa sức thể hiện niềm yêu, nỗi nhớ, lòng tự hào của mình. Nếu bạn đã từng say đắm trước khúc ca “Đất nước” của tác giả Nguyễn Khoa Điềm, ham thích thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc trong “Vợ chồng A Phủ” thì đừng bỏ qua vẻ đẹp đa dạng của thiên nhiên Việt Nam, của dòng sông Việt Nam qua ngòi bút của Nguyễn Tuân với tùy bút “Người lái đò Sông Đà” và Hoàng Phủ Ngọc Tường với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của hai dòng sông trong “Người lái đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” cũng chính là vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam.
Nhà văn Nguyễn Tuân là tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người trí thức yêu nước, giàu tinh thần dân tộc và rất mực tài hoa, uyên bác. Sáng tác văn chương của Nguyễn Tuân luôn có sự chuyển mình rất tích cực theo biến chuyển của thời đại. Nếu trước Cách mạng, ngòi bút của ông hướng đến ba đề tài lớn là “thiếu quê hương”, “chủ nghĩa xê dịch”, đời sống trụy lạc thì sau Cách mạng, tác phẩm của Nguyễn Tuân trở nên phong phú hơn với đề tài về ngợi ca thiên nhiên, con người, đất nước Việt Nam.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được trích từ tập “Sông Đà”- tác phẩm kí thành công bậc nhất của nhà văn Nguyễn Tuân và cũng gắn với nhiều kỉ niệm của ông. Đó là thành quả chuyến đi thực tế của nhà văn vào những năm 1959,1960. Ông lên Tây Bắc để khám phá thiên nhiên, con người nơi đây, tìm kiếm thứ vàng mười đã qua thử lửa. Và ấn tượng sâu đậm mà bút ký Sông Đà cùng tùy bút Sông Đà để lại trong lòng bạn đọc là một dòng sông hung bạo nhưng cũng rất đỗi trữ tình dưới đôi tay chèo điệu nghệ.
Còn tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí. Ông có lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm,tài hoa, kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa tư duy đa chiều với nghị luận sắc bén, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang đến cho bạn đọc nhiều tác phẩm đặc sắc. Các tác phẩm bút kí chính của ông phải kể đến: “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Rất nhiều ánh lửa” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong số những tập bút ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bút ký ban đầu vốn có nhan đề “Hương ơi e phải mày chăng?” được tác giả hoàn thành ngày 4/1/1981 khi nhà văn sống bên bờ sông Hương, trong thành phố Huế hơn bốn mươi năm. Tình yêu sông Hương, xứ Huế thơ mộng đã vun đắp trong ông tình cảm để viết những trang kí đẹp về sông Hương, xứ Huế.
Sau những trang viết về một Sông Đà hung bạo, nhà văn Nguyễn Tuân mở ra trước mắt ta hình ảnh con sông trữ tình, thơ mộng như một sinh thể sống với sự thơ mộng, trữ tình qua dáng vẻ và qua tâm hồn. Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà mang theo màu sắc huyền ảo, ẩn chứa những gì thơ mộng, tinh túy nhất của nơi thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hoang dại.
Dáng vẻ của Sông Đà là vẻ đẹp bên ngoài của dòng sông mà bạn đọc dễ dàng bắt gặp khi đến với Sông Đà, khi tìm về mảnh đất Tây Bắc. Dòng sông được so sánh với người thiếu nữ mang vẻ đẹp kiều diễm “Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Cách so sánh của Nguyễn Tuân rất độc đáo, duyên dáng khi nhìn dòng sông như một mái tóc mềm mại sinh thể sống sống động đến từng chi tiết. Từ “áng” làm câu văn tăng thêm tính thẩm mĩ bởi nó là thường được dùng trong cụm “áng văn, áng thơ”. Ví von dòng sông như “áng tóc trữ tình” quả là cảm nhận tinh tế của nhà văn khiến ai cũng phải yêu phải quý. Nguyễn Tuân còn không quên khẳng định vẻ đẹp của Sông Đà cũng mang đậm hơi thở của cái đẹp nơi thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc với những hoa ban, hoa gạo, mù khói núi Mèo. Trong cả một câu văn, nhà văn chỉ dùng hai dấu ngắt câu, có lẽ là bởi dòng cảm xúc trong Nguyễn Tuân đã dâng trào mãnh liệt khi bắt gặp khung cảnh tuyệt đẹp đó. Một sự biến chuyển đầy tinh tế từ những dữ dội, hiểm nguy đến vẻ dịu dàng, e ấp của người thiếu nữ Tây Bắc - dòng Sông Đà. Tất cả đều trở nên hợp lý, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn.
Khám phá nét đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông vốn hung bạo. Tưởng chừng đó là một thách thức, nhưng thách thức ấy cũng trở nên êm đẹp dưới tài hoa của người nghệ sĩ chân chính. Ông phát hiện được những vẻ đẹp đa dạng của Sông Đà và với bản thân tác giả, những gì thuộc về Sông Đà đều khoác trên mình cái đẹp trữ tình, thơ mộng. Đó là những lời văn khẳng định về nét riêng của nước Sông Đà. Đặt Sông Đà trên bình diện so sánh với nhiều dòng sông khác trên đất nước ta. Điều mà tác giả muốn khẳng định đâu phải sự “trên cơ”. Nguyễn Tuân rất nhẹ nhàng để bạn đọc nhìn được nét riêng của dòng sông. Nước Sông Đà không đục ngầu, mỗi mùa lại có những vẻ đẹp rất riêng cho sắc nước Sông Đà: mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ…Tác giả so sánh ví von rất triệt để và minh oan cho dòng sông. Sông Đà chưa bao giờ đen, xấu xí như thực dân Pháp từng vu oan. Dường như khám phá của nhà văn không chỉ dừng lại ở hình ảnh nước sông. Ông còn hướng ánh nhìn và ngòi bút của mình để phát hiện đến tận cùng của cái đẹp để khám phá ra vẻ đẹp rất đỗi nên thơ của con sông: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dùng rất nhiều so sánh trong bài viết của mình. Ông tinh tế khi nhìn ngắm cái tĩnh lặng của khung cảnh Sông Đà. Ông khơi gợi trong bạn đọc bao hoài niệm dù chưa một lần đặt chân đến Tây Bắc. Nó quen thuộc vì ta đã bắt gặp nó đâu đó trong những câu chuyện cổ tích. Bên bờ sông còn thơ mộng bởi hình ảnh con nai ngơ ngác nghe tiếng còi.Trong cái lặng tờ, yên ả của cảnh vật, tiếng còi xé tan không gian yên tĩnh và làm con người, cảnh vật thức tỉnh với sức sống tươi mới.
Và có lẽ người ta càng thêm yêu bởi Sông Đà đã trở thành ký ức sâu đậm. Sông Đà được ví như một người cố nhân. Người cố nhân- người bạn cũ đã từng chứng kiến những vui buồn trong đời ta. Giống như bao người bạn khác, Sông Đà đã trở thành người bạn yêu thương của hiện tại, cố nhân của người đi xa để dù đi đâu ai cũng thương, cũng nhớ.
Ngòi bút ngông tài hoa của Nguyễn Tuân đã cho bạn đọc một góc nhìn mới lạ hơn về Sông Đà. Những thủ pháp so sánh, liệt kê đã trở thành trợ thủ đắc lực để ngòi bút Nguyễn Tuân tung hoành và thỏa sức sáng tạo. Sông Đà trữ tình, thơ mộng cũng chính là vẻ đẹp biểu trưng cho thiên nhiên Tây Bắc và là lời mời gọi thiết tha mọi người một lần đến ngắm nhìn dòng sông đẹp nên thơ. Nguyễn Tuân gửi vào từng câu chữ của mình là tâm tư, tình cảm trân trọng cho cảnh sắc tươi đẹp của thiên nhiên, đất nước Việt Nam.
Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các nhà thơ, nhà văn làm đề tài sáng tác. Họ luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những di sản thiên nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sông nước chính là một trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lý đã khơi gợi trong lòng các nhà văn những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật. "Người lái đò Sông Đà" -Nguyễn Tuân và "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" - Hoàng Phủ Ngọc Tường được ra đời từ chính sự thôi thúc trước cái đẹp của các nhà văn. Tuy được sáng tác ở những khoảng thời gian khác nhau nhưng ở cả hai tác phẩm đều tái hiện thành công vẻ đẹp trữ tình, đằm thắm của những dòng sông quê hương.
Viết về đề tài sông nước đã có nhiều bài thơ, bài văn rất thành công. Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác thấm đượm nỗi nhớ nhà trong " Tràng giang" của Huy Cận hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, chỉ là cái cớ để các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với "Người lái đò sông Đà" và "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút của các nhà văn hình ảnh dòng sông "độc bắc lưu" và hình ảnh dòng sông của xứ Huế mộng mơ hiện Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa dạng ở nhiều khoảng thời gian, không gian,với điểm nhìn khác nhau. Dòng sông Đà trước tiên được Nguyễn Tuân có lúc nhìn ngắm như một người xa lạ, có lúc lại như một cố nhân thân thuộc; có khi ngắm nhìn sông Đà từ trên cao , khi lại tiến đến cận cảnh để nhận ra rõ hơn vẻ đẹp của nó. Về thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm ngưỡng ở cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông- mỗi mùa lại đem đến cho tác giả những xúc cảm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp của con sông yêu thương. Với dòng sông Hương , Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành công vẻ đẹp hoàn chỉnh về nhiều góc độ của nó. Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông Hương lúc ở thượng lưu, ở ngoại vi, ở giữa lòng thành phố Huế. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử, cuộc đời và thi ca. Có thể nói, cả hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ đẹp của dòng sông gắn bó tha thiết với mình qua nhiều phương diện khác nhau. Chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn, sự lôi cuốn cho người đọc, để lại trong họ nhiều ấn tượng đậm nét.
Để có được tác phẩm hay như vậy, để làm nổi bật được vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông đó, tất cả đều phải trải qua ngòi bút tài hoa, uyên bác của các nhà văn. Ở mỗi nhà văn lại có cách diễn đạt và cảm nhận riêng, xong họ lại bắt gặp, đồng điệu tâm hồn trong sự khả năng quan sát tinh tế thông qua những liên tưởng, so sánh đầy tính tạo hình, biểu cảm. Vẻ đẹp của dòng sông cũng vì thế mà càng đậm nét hơn, ấn tượng hơn. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái trẻ trung mang trong mình những vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi " Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai"; "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại"... Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo các nhà văn đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên miền sông nước với vẻ đẹp trữ tình đằm thắm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc đồng thời làm sống dậy trong họ tình cảm yêu thương, niềm tự hào với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở, của Tổ quốc.
Bên cạnh những nét chung độc đáo, vẻ đẹp trữ tình của hai con sông còn mang những nét riêng vô cũng đặc sắc. Đầu tiên là vẻ đẹp của dòng sông Đà. Con Sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số ,ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ "đỏng đảnh" để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình- một nét tính khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm chất chữ tình. Và cũng giống như con Sông Đà khi hung bạo, nó được con người luôn khát khao tìm kiếm cái đẹp kia miêu tả ở nhiều góc độ. Lúc thì nhà văn nhìn con sông từ trên tàu bay, từ trên cao, có lúc lại nhìn qua đám mây mùa xuân, khi nhìn qua đám mây mùa thu, có khi tác giả cảm nhận dòng sông bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi bằng đôi mắt lịch sử, của hồi ức, của quá khứ, và ở điểm nhìn, con Sông Đà lại có một vẻ đẹp khác nhau. Khát khao tìm đến một cái vẻ đẹp mới hoàn mĩ cùng bản tính của một người nghệ sĩ luôn mong muốn tìm kiếm sự mới lạ độc đáo đã khiến cho dòng Sông Đà trở nên sinh động " đóng đinh" vào trong lòng người đọc. Con sông đầy ghềnh thác tung bọt trắng xóa nhìn từ trên xuống ngoằn ngoèo như một cái dây thừng. Rồi có lúc nó lại giống như một thiếu nữ mà có lẽ nói đúng hơn là một tiên nữ giáng trần khiến cho người ta phải mê mẩn: "Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Cũng giống như rất nhiều những câu văn sau đó nữa, câu văn ngân vang lên như một bài thơ, dòng sông giờ đây trở nên thật hiền lành, nó như một nét vẽ đẹp tô điểm cho bức tranh của núi rừng Tây Bắc. Và vẻ đẹp của Sông Đà không bao giờ nhàm chán. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, hình hài khác nhau: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về..." Dường như ở con sông Đà không có chỗ cho những cái sơ sài, tất cả đều phải là tuyệt đỉnh.
Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà". Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ "gợi cảm". Và quả thực ,vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác "đằm đằm ấm ấm", gợi biết bao thi vị. Trong vẻ đẹp của Sông Đà, họ phát hiện ra nó đẹp như một bức tranh đường thi vẽ cảnh "Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu "của Lý Bạch. Vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng đọng về một thời Lý, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc: "Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ thời Lý đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi . Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra nhưng nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Vừa vượt qua ghềnh thác Sông Đà, ai nghĩ Sông Đà lại có một quãng sông lặng tờ đến vậy ? ấy thế mà điều đó lại đang hiện hữu. Đến quãng sông này, Sông Đà như một dòng sông vắt qua thời gian, như một chứng nhân im lặng đang âm thầm đóng góp vẻ đẹp của mình cho đất trời. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại với thiên nhiên,bờ bãi ven sông. Dường như con người muốn hòa mình cùng cảnh vật để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Bờ sông lúc này như biến thành một bờ cổ tích. Giữa con người và thiên nhiên có một mối chan hòa, giao cảm và đồng điệu tuyệt vời: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương ,chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?". Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông ,bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến". Cuộc đối thoại tưởng tượng của nhà văn khiến cho thiên nhiên hiện hình với tất cả vẻ hoang sơ của nó, dường như nằm ngoài những biến động, âm thanh của cuộc sống con người. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một "ông khách" thưởng ngoạn cái đẹp. Giữa con người và thiên nhiên có một mối quan hệ hòa hợp, thân thiện. Mọi chuyển động dường như đều cố gắng để không làm ảnh hưởng đến cái dòng chảy tĩnh lặng như thời tiền sử ấy. Quá khứ và hiện tại đan xen khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian.
Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Nhà văn đã khiến cho bức tranh ấy mang một vẻ đẹp hoàn hảo, độc đáo và đầy ấn tượng. Có dòng sông, có nước sông, có cảnh vật hai bên bờ sông nhưng đó phải là con sông như một áng tóc trữ tình, bờ sông như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Sông Đà đẹp! đó là điều không thể phủ nhận. Nhưng với Nguyễn Tuân dòng sông mang một vẻ đẹp hoàn mỹ. Nó không chỉ đơn giản là một dòng sông chảy tràn qua núi rừng Tây Bắc mà trở thành một sinh thể sống động, một linh hồn tinh tế và nhạy cảm. Dòng sông Đà hùng vĩ, hiểm trở là kẻ thù, là thách thức, là một kẻ "hằng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người" ; vượt qua đoạn thượng nguồn nó đã trở thành một cố nhân. Và khi trước cảnh: "Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình" Sông Đà trở thành "người tình nhân chưa quen biết"... Cứ thế, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp của con sông bằng tất cả niềm say mê, tình yêu với sông núi, giang san. Nhà văn đã hát lên những lời ngợi ca say sưa về vẻ đẹp trữ tình tuyệt vời của Sông Đà như một khúc ca hùng tráng, ngập tràn yêu thương đối với một vùng thiên nhiên tươi đẹp của đất nước.
Đề tài những dòng sông luôn trở đi trở lại trong biết bao nhiêu trang thơ trang văn của những người nghệ sĩ. Nếu như con sông Hồng được miêu tả trong tứ thơ Tràng Giang của Huy Cận thì một lần nữa hình ảnh những dòng sông lại được Nguyên Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn để làm nên hai tác phẩm đó là Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông?. Qua đó vẻ đẹp của hai con sông Đà và sông Hương xứ Huế được hiện lên thật đẹp và nên thơ. Có thể nói ngoài vẻ đẹp hung bạo và rậm rộ như bản trường ca của rừng già của hai dòng sông thì chúng ta còn thấy được vẻ đẹp trữ tình đầy thi vị của chúng.
Trước hết những con sông Việt Nam hiện lên qua vẻ đẹp của sông Đà và sông Hương qua vẻ đẹp về hình dáng. Vẻ đẹp ấy được bút pháp và tài nghệ của hai nhà văn tài hoa ấy thể hiện rất tinh tế và làm cho người đọc liên tưởng được những hình ảnh hấp dẫn.
Trước hết là hình dáng sông Đà, với sự tài hoa uyên bác của mình nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến trước mắt ta những vẻ đẹp vô cùng đẹp của con sông chỉ chảy riêng một hướng đó. Chính vẻ đẹp trữ tình của nó đã làm đẹp hơn và lấn át đi những vẻ đẹp hung bạo kia. Có thể nói vẻ đẹp hung bạo của nó khiến cho người ta khiếp sợ bao nhiêu thì vẻ đẹp trữ tình này lại khiến cho người đọc yêu nó, say cái đẹp của nó bấy nhiêu.
Sông Đà từ trên cao nhìn xuống nó mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc. Nhìn từ trên cao ấy sông Đà "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương xuân". Phải chăng đó chính là mái tóc của người thiếu nữ Tây Bắc đẹp như làn nước vậy. Đặc biệt từ trên cao xuyên qua những đám mây ấy nhìn xuống vẻ đẹp ấy thật sự giống như mái tóc mượt mà của người con gái xứ Hoa Ban ấy. Không những thế mái tóc ấy còn hiện lên đẹp hơn khi "Đầu tóc chân tóc ẩn hiện trên mây trời Tây Bắc". Hình ảnh mang đến cho ta một sự hấp dẫn và nên thơ lạ thường. Con sông hung bạo với những trận bày thạch đá ấy, những thác nước dữ tợn ấy mà giờ đây lại hiền hòa như mái tóc của người con gái vậy. Thế rồi tác giả quan sát kĩ nhìn dòng sông cũng giống cả một dây thừng ngoằn nghèo nữa. Đó chính là vẻ đẹp thướt tha kiều diễm của sông Đà.
Không những thế sông Đà còn như một người cố nhân lâu ngày gặp lại chốc hiền hòa rồi lại bất ngờ cáu kỉnh lên đấy thôi. Tác giả vẽ lên những hình ảnh của người cố nhân ấy, nó mang vẻ đẹp như "vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Có thể thấy với bút pháp tài hoa của mình Nguyên Tuân đã mang đến cho người đọc một người cố nhân đẹp.
Sông Đà còn trữ tình khi từ lòng sông nhìn sang hai bên bờ. Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp ấy đã mang đến cho ta những hình ảnh con sông Đà thật hoang sơ cổ kính. Nhìn "bờ sông hoang sơ như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm thuở xưa". Không những thế mà bờ sông còn hiện lên yên ắng lặng lẽ như tờ. Dường như từ thời nhà Lý nhà Trần cũng yên lặng đến thế mà thôi. Nó còn hiện lên với vẻ đẹp tươi tắn của những lá nương ngô mới nhú đầu mùa, cỏ quanh đồi đang ra những nõn búp mới. Qua đây ta thấy sông Đà hiện lên thật hoang sơ cổ kính, cái vẻ đẹp ấy có từ thời rất xa xưa đến nay vẫn còn nguyên.
Đến con sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho chúng ta một nét đẹp của nó không kém phần sông Đà. Sông Hương xứ Huế cũng có những nét đẹp hung bạo nhưng nhà thơ không nói đến nó quá nhiều mà tập trung vào vẻ đẹp trữ tình của nó. Trước khi về đến thành phố thì dòng sông Hương cũng đã là một bản trường ca của rừng già, nó đi qua những bãi đỗ quyên đỏ rực.
Trước hết vẻ đẹp ấy giống như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nó dịu dàng đằm thắm hơn bao giờ hết. Nó không còn là bản trường ca của rừng già nữa mà nó mang vẻ đẹp của sự hiền lành đáng yêu. Không những thế nó còn mang vẻ đẹp của người mẹ phù sa nơi đây. Sông mang về những phù sa màu mỡ để mang đến cho những cánh đồng Châu Hóa kia.
Tiếp theo vẻ đẹp của dòng sông Hương còn được thể hiện khi nó vào ngoại vi thành phố. Nhìn sông Hương "như người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại". Sông Hương cũng giống sông Đà mang một nét đẹp của người con gái. Thế nhưng ở đây sông Hương mang không đẹp như mái tóc người con gái mà đẹp bởi những đường cong quyến rũ. Để vào được đến thành phố sông Hương phải trải qua không biết bao nhiêu đoạn gấp khúc quanh co qua những đồi thiên Mụ... Và chính những đường gấp khúc ấy nó đã tạo nên những đường cong đẹp đẽ cho sông Hương.
Vẻ đẹp thứ hai của cả hai con sông đó chính là màu sắc. Những sắc nước ấy đã mang lại những điều tuyệt đẹp cho sông Việt Nam.
Với sông Đà thì sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân sắc nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như mặt của một người bầm đi vì rượu bữa" hay là tức giận ai điều gì. Sông Đà chưa bao giờ có màu đen như Pháp đã lếu láo đặt tên nó trên bản đồ.
Còn sắc nước sông Hương biến đổi theo ngày sớm xanh trưa vàng chiều tím. Đó là những màu sắc đi liền với Huế. Chính vị thế mà ngay cả màu của sông cũng mang hồn Huế.
Qua đây ta thấy cả hai nhà văn đều mang đến cho chúng ta những vẻ đẹp của hai con sông ấy. Qua những câu văn đầy tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân ta thấy được một vẻ đẹp vô cùng trữ tình của con sông Đà Tây Bắc, và cũng như thế chúng ta cũng biết thêm những nét đẹp của con sông Hương qua bút pháp miêu tả tài tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tóm lại vẻ đẹp của những con sông ấy hay chính là những vẻ đẹp của những con sông Việt Nam.