Đề 1: "Văn chương [...] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.

Bài viết:

"Văn chương [...] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương.

Bài viết mẫu số 1

Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà ngay ở thế kỉ XIX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì được chứ không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào cho đúng.

Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào?

"Văn chương chuyên chú ở văn chương" là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn... nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là "văn" không cần biết nội dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức.

"Văn chuyên chú ở con người" chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người, "làm cho người gần người hơn" (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. "Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu" (Lỗ Tấn).

Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là: Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người.

Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói "Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ". Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại "không đáng thờ" không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối óc của những "kĩ sư tâm hồn". Văn chương mà chỉ như những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:

"Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?"

(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu).

Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương "một tấc đến trời", chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng, muốn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ Cao cho đó là "đồ con trẻ" là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng tuếch và giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động: Anh có biết rằng:

Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi
Còn một nửa do mùa thu làm lấy

(Chế Lan Viên)

Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ chăng? "Văn chương phải có quan hệ với đời" (Ngô Thi Sĩ) và "Cuộc đời là nơi đi tới cũng là điểm khởi đầu của văn chương" (Tố Hữu). Nếu L.Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác "Chiến tranh và hoà bình" thì cũng chính là kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình nó có ra đời không? Nếu không gắn bó, đau đời Nguyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không?

Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính chứ không phải văn chương "hũ nút" mà người ta có thể "kính nhi viễn chí". Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng "Từ đạt nhi dĩ hí" (nghĩa là: văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi) điều quan trọng là cái "tâm" của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đọn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người.

Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập vào con người, vào nhân loại, là "lương tâm của mọi thời đại" (Balzac). "Văn phải chở đạo", phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là "văn đáng thờ".

Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng: "Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lí trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chương mà thôi".

Nói đến "Văn chương đáng thờ" Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến cái giá trị của văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân - Thiện - Mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao ước một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy được thế giới tâm hồn của A.Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một "thằng gù" cực kì xấu xí như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo ai mà không nghe dâng lên một tí gì của xốn xanh, của một niềm thương yêu tủi hận như muốn nghẹn ngào... Và ta khẳng định rằng: Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng người mói là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn từ để người ta xem như một trò giải trí, "đọc rồi quên ngay sau lúc đọc" đấy chỉ là "thợ" đàn với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối sống sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đường khoa bảng, theo yêu cầu của họ, ông ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc

"Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước.
Chim ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn.
Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vấn.
Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá".

Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất thâm thuý hay thay.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của Thạch Lam - Thế hệ hậu bối của "Thần Siêu" – thì có lẽ nhà văn trẻ này phát biểu toàn diện hơn: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc được thêm trong sạch và phong phú hơn".

Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết:

Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài

(Truyện Kiều)

Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ "tài". Nhưng nếu coi văn học là một cái cây thì chữ "tài" chỉ là lá cành mà chữ "tâm" kia mới là gốc là ngọn. Cho nên nếu "văn chương" mà chỉ đơn thuần "chuyên chú ở con người" mà không "chuyên chú ở văn chương" thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa chăng?

Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã khẳng định: "Văn học là nhân loại", ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành rằng người ta nói "tốt gỗ hơn tốt nước sơn" nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đề tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn! Cho nên nếu cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính (nghĩa là văn chương của cái đẹp) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp văn chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường nhất. Thực ra, văn chương chuyên chú ở văn chương và "văn chương chuyên chú ở con người" là hai mặt của một tờ giấy trắng. "Văn chương chuyên chú ở con người" nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp, và ngược lại. Đỗ Phủ đã từng viết "Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu" ngôn ngữ phải làm cho người ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm thô vụng về ý thức: Khi anh nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hẳn anh không phải là một con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân loại này hiểu anh, hiểu cái "tâm" của anh - Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng thì nội dung truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người.

Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa "văn chương chuyên chú ở văn chương" và "văn chương chuyên chú ở con người". Nhưng nếu có một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn "Đây cái này là tốt gỗ" và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ đại bạn sẽ chọn bên nào?

Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người thì dễ có giá trị hơn, nhưng "văn chương chuyên chú ở văn chương" thì chưa hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc "đọc rồi quên ngay sau khi đọc".

Cái "tâm" là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu dửng dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm nên một ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà còn lại cái "nhân" rộng lớn, cái "tình" muôn thuở.

Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì "chất" ở bên trong vẫn là yếu tố quyết định. Chữ "tâm" là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã có ghi những hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nhà thơ trọn đời cũng không viết được một câi thơ có giá trị nào dù rất kiên tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ.

Bài viết mẫu số 2

Từ xa xưa, văn chương đã xuất hiện và phát triển song song với lịch sử xã hội loài người. Trong kho tàng văn học nhân loại, có biết bao nhiêu kiệt tác mà giá trị đã vượt qua giới hạn không gian, thời gian để trở thành bất hủ. Ấy thế nhưng rất nhiều thế hệ cầm bút vẫn không nguôi trăn trở về ý nghĩa và giá trị đích thực của văn chương.

Đầu thế kỉ XX, trên văn đàn nước ta diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt giữa các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về văn chương, tiêu biểu là hai trường phái: Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh. Tuy nhiên, từ cuối thế kỉ XIX, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định: Văn chương... có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Nhận định đúng đắn này rất gần gũi với quan điểm: Mục đích tối thượng của văn học là phục vụ con người, phục vụ nhân sinh.

Thế nào là loại văn chương chỉ chuyên chủ ở văn chương? Đó là loại văn chương chỉ chú trọng về mặt nghệ thuật, coi nghệ thuật là trên hết, thậm chí tôn sùng nghệ thuật như một tôn giáo kì bí. Người cầm bút chỉ lo trau chuốt cho vẻ đẹp hình thức của tác phẩm chứ không quan tâm tới nội dung tư tưởng có liên quan đến vận mệnh con người và trách nhiệm của nhà văn, nhà thơ đối với xã hội hay không.

Loại văn chương ấy thường chuộng hình thức xưa cũ cầu kì hoặc thiên về vẻ đẹp hào nhoáng, bóng bẩy của ngôn từ; còn nội dung thì xa rời, thoát li hiện thực... Những sáng tác như thế đều không chịu nổi thử thách nghiêm ngặt của thời gian và dư luận. Bài thơ vịnh Mùa thu sau đây của tác giả Ngô Chỉ Lan thế kỉ XV toàn là hình ảnh tượng trưng, ước lệ vay mượn từ thơ Đường, thơ Tống, như: gió vàng, bông nhạn, giống ngọc, rừng phong:

Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lồ tổ bôn trời bóng nhạn thưa,
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.

Nguyễn Gia Thiều, tác giả của Cung oán ngâm khúc đã lạm dụng điển tích, điển cố trong văn chương, sử sách Trung Hoa khiến nhiều câu thơ trở nên cầu kì, khó hiểu:

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng vương.

hoặc:

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quản thu phong đứng rũ tà huy.

Cho đến khi trào lưu Thơ mới xuất hiện và phát triển, làm chủ thi đàn Việt Nam vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ XX thì không ít thi sĩ vẫn quan niệm rằng văn chương chỉ là văn chương. Thế Lữ lúc đầu khẳng định mình chỉ tôn sùng Cái Đẹp:

Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp cỏ muôn hình, muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca
Vẻ đẹp u trầm, đắm đuối hay ngây thơ
Cũng như vẻ đẹp cao siêu, hùng tráng,
Của non nước, của thi văn, tư tưởng...

(Cây đàn muôn điệu)

Trong bài thơ trên, Thế Lữ cho rằng thi nhân, nghệ sĩ là những khách tình si ham mê Cái Đẹp. Thiên chức duy nhất và cao cả nhất của nghệ sĩ là đi tìm Cái Đẹp, phụng sự Cái Đẹp chứ không bận tâm đến những vấn đề thiết thực của con người và xã hội, đến trách nhiệm công dân của bản thân họ. Thi sĩ muốn được sống trên cõi tiên để xa lánh cuộc đời trần tục và coi đó là biểu hiện của thái độ thoát li thực tại. Thơ văn ấy tuy đẹp, tuy hay nhưng nó xa lạ với dân tộc đang phải sống đói khổ, tủi nhục dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến.

Cực đoan hơn nữa, một vài nhà thơ, nhà văn theo quan niệm văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương đã phủ nhận nội dung tư tưởng và giá trị nhân sinh trong tác phẩm. Họ cho rằng sáng tác nghệ thuật không nên đề cập tới các vấn đề liên quan tới chính trị, tư tưởng, đạo đức... và có như thế mới xứng đáng được gọi là văn chương. Hoặc khẳng định thơ không cần phải có nội dung, ý nghĩa cụ thể mà thơ là nghệ thuật của âm thanh, hình ảnh; thậm chí chỉ là ảo thuật của ngôn từ mà thôi.

Sang giai đoạn cuối của trào lưu lãng mạn, các trường phái thơ bí hiểm, thơ loạn, thơ điên... là biểu hiện cụ thể của quan niệm sai lệch nêu trên. Không ít những sáng tác loại này đã bị dư luận phê bình, chỉ trích.

Còn thế nào là văn chương chuyên chú ở con người? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết đến số phận con người và cuộc sống, luôn hướng tới mục đích phục vụ con người. Các nhà văn, nhà thơ theo quan điểm này cho rằng giá trị của văn chương không phải chỉ ở chỗ dùng từ ngữ hay, hình ảnh đẹp, điển tích điển cố cầu kì, nội dung dẫn dắt người đọc xa rời thực tế hoặc có ảo tưởng về cuộc sống trước mắt..., mà là ở chỗ nó có ích cho cuộc đời nhiều hay ít, gần hay xa. Đây chính là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Các tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực và cách mạng, kể cả một số tác phẩm thuộc trào lưu lãng mạn có nội dung tích cực cũng được viết theo quan điểm đúng đắn này.

Văn chương chân chính phải phục vụ con người, phải phản ánh được đời sống vật chất, tinh thần của con người với những niềm vui, nỗi đau muôn thuở. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định: Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học.

Cách đây hơn một trăm năm, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nêu rõ chức năng của văn học và trách nhiệm xã hội của người cầm bút:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Đạo ở đày là nhân nghĩa, là yêu nước, thương dân. Văn chương là con thuyền chở đạo (đạo lí làm người) và ngòi bút là vũ khí sắc bén để trừ gian, diệt ác, cứu đời, cứu người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển và nâng cao ý nghĩa của quan niệm tích cực ấy trong bài cảm tưởng đọc Thiên gia thi:

Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

Theo Bác thì văn chương phải là vũ khí chiến đấu để cải tạo, xây dựng xã hội và văn nghệ sĩ là người chiến sĩ đứng trong hàng ngũ cách mạng, cống hiến, hi sinh để bào vệ chủ quyền độc lập tự do của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.

Loại văn chương đáng thờ mà danh sĩ Nguyễn Văn Siêu nhắc tới chính là văn chương viết về con người, phục vụ con người. Ý kiến này của ông rút ra từ hiện thực nền văn học nước nhà nên hoàn toàn xác đáng.

Nhưng nếu văn chương chỉ chuyên chú ở con người mà coi nhẹ hình thức nghệ thuật thì liệu tác phẩm cỏ thể cuốn hút được người đọc, có thể đứng vững trước thời gian hay không? Có ý kiến cho rằng: Văn học không chỉ phải chân thực, sâu sắc, nhân đạo mà còn phải hay, phải đẹp. Vậy hai ý kiến này có mâu thuẫn với nhau chăng?

Như trên đã nói, con người là trung tâm của cuộc sống mà văn chương lại là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nếu văn chương không đề cập tới con người thì nó sẽ không có giá trị; Mặt khác, giá trị nội dung và nghệ thuật của văn chương luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Nội dung chi phối và lựa chọn hình thức thể hiện. Do vậy mà không có nội dung thì cũng không thể có hình thức. Xét cho cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung tác phẩm như thế nào? Văn chương sáng tạo ra Cái Đẹp mà Cái Đẹp lại chính là sự sống. Không có Cái Đẹp thuần túy, trừu tượng chẳng liên quan gì đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Phản ánh con người chính là cách thức duy nhất để văn chương đến với Chân, Thiện, Mĩ của cuộc đời.

Một tác phẩm có giá trị lâu dài nghĩa là phải vừa hay, vừa đẹp. Nhà văn sáng tạo ra nó phải thực sự có tài năng và tâm huyết. Cái tâm chính là tấm lòng là tình người, tình đời của người cầm bút. Cái tâm mới là gốc rễ bền vững làm nên mọi giá trị thực sự của văn chương chân chính.

Lòng thương yêu, cảm phục người nông dân yêu nước giúp nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu dựng nên một tượng đài hùng tráng về người nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử văn học Việt Nam. Sự đau xót chân thành trước số phận bi thảm của con người lương thiện; thái độ bất bình, căm phẫn xã hội phong kiến thối nát, bất công là cơ sở để thi hào Nguyễn Du viết nên một Truyện Kiều bất hủ. Nhà văn Nam Cao lạnh lùng, tỉnh táo phân tích cội nguồn mọi điều xấu, điều ác đều xuất phát từ giai cấp thống trị đương thời. Đạo tục đen tối của xã hội đã tước đoạt quyền sống, quyền làm người và chà đạp lên danh dự, nhân phẩm. Những tác phẩm như Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt... và đặc biệt là Chí Phèo của Nam Cao là lời kêu cứu hãy bảo vệ con người, hãy chặn đứng bàn tay tội ác tha hóa con người.

Mấy trăm năm qua, người đời vẫn rung động sâu xa trước tiếng than xé ruột: Đau đớn thay phận đàn bà của thi hào Nguyễn Du, vẫn yêu thích cái hay cái đẹp của Truyện Kiều, bởi đó là tác phẩm chuyên chú ở con người. Phần tích cực, trong sáng của Thơ mới cũng được coi là tiếng nói trẻ trung, yêu đời tha thiết, yêu tiếng Việt sâu xa. Thế hệ trẻ sẽ không bao giờ quên thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... Những tác phẩm như thế chính là loại văn chương đáng thờ vậy.

Văn chương là nghệ thuật, vì vậy người viết phải chú ý đến tính nghệ thuật của văn chương, Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát được người đương thời đánh giá rất cao là: Thần Siêu, thánh Quát. Vì thế, chắc chắn nghệ thuật văn chương của hai ông phải tài tình, điêu luyện. Nhưng tài nghệ văn chương dù có tài tình, điêu luyện đến đâu thì cũng phải chuyên chú ở con người thì mới xứng đáng được đề cao và ca tụng.

Ý kiến trên đây của danh sĩ Nguyễn Văn Siêu tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật truyền thống của dân tộc ta. Chính với quan điểm văn chương chuyên chú ở con người mả ông cha ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và giàu chất nhân văn. Nền văn học ấy là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của văn chương hiện đại.

Bài viết mẫu số 3

Mục đích và ý nghĩa của sáng tác văn chương là gì? Giá trị thật sự của văn chương là ở đâu? Những câu hỏi ấy thường đặt ra đối với người cầm bút xưa và nay.

Vào giữa những năm ba mươi của thế kỉ XX, văn học nước ta đã nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi về chính vấn đề đó: “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”? Thực ra, không phải tới bây giờ, vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu của lí luận văn học đó mới được đặt ra và mới có những câu trả lời khác nhau của hai phái có hai quan điểm văn chương khác nhau. Từ xưa, cha ông ta đã từng suy nghĩ và phát biểu ý kiến về vấn đề này. Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872) – một danh sĩ đời Nguyễn, văn chương nổi tiếng như Cao Bá Quát và được nhiều người đương thời gọi là “thần Siêu, thánh Quát” – đã nói rất rõ quan điểm của ông: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.”

Thế nào là văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương”? Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống, đến vận mệnh con người, không có trách nhiệm xã hội nào.

Biểu hiện của khuynh hướng này cũng đa dạng với những mức độ nặng nhẹ, mức độ tự giác khác nhau, trong những thời đại văn học khác nhau, thuộc những trào lưu khác nhau…

Đối với những văn nhân, thi nhân thời xưa thì “chuyên chú ở văn chương” có nghĩa là chỉ chăm chú gò câu đẽo chữ, tìm chữ cho kêu, đặt câu cho khéo, đối cho thật chỉnh, âm điệu thật réo rắt… Hoặc chỉ miệt mài với những trò tiểu xảo cầu kì, như dùng điển tích lắt léo, gieo vần oái oăm, nghĩ ra những kiểu thơ rắc rối kì khu. Hoặc chỉ biết ngâm vịnh phù phiếm, thơ chỉ toàn có mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Hồ Chí Minh đã từng nhận xét loại “thơ xưa” thiên về yêu cảnh thiên nhiên đẹp mà không chuyên chú đến cuộc đời, đến vận mệnh con người đó…

Quan điểm “nghệ thuật vì nghệ thuật” của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945 là biểu hiện tự giác của loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương” nói trên. Các nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam tuyên bố “văn chương là văn chương” nghĩa là văn chương không dính dáng đến cuộc sống, đến xã hội, nó chỉ biết đi tìm cái đẹp và nó chỉ là nó. Một nhà thơ lãng mạn đã viết:

Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi?
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp có muôn hình muôn vẻ.

(Li tao – Thế Lữ)

Đoạn thơ đã đặt ra một định nghĩa về người nghệ sĩ: đó là người khách tình si ham cái đẹp, chỉ có một thiên chức: đi tìm cái đẹp và phụng sự nghệ thuật, chứ không bận tâm đến một trách nhiệm xã hội nào. Có điều là trên thực tế, các cây bút lãng mạn đó không phải chỉ biết săn tìm cái đẹp và dửng dưng trước niềm vui, nỗi buồn của con người đương thời và vì thế, văn học lãng mạn 1930 – 1945 vẫn có những yếu tố tích cực, nhưng đó lại là chuyện khác.

Thái độ “chuyên chú ở văn chương” không dừng ở dó. Sau đó, nó còn được đẩy tới cực đoan, trở thành chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa hình thức. Đó là loại văn chương coi hình thức là tất cả, phủ nhận hoàn toàn nội dung của văn chương. Chẳng hạn, nó cho rằng thơ chẳng những không được nói đạo đức, chính trị, xã hội, mà cũng không được tả cảnh; tả hình và không cần nói về bất cứ cái gì, và bảo rằng như thể thơ mới “thuần túy”, mới thật là thơ! Nó khẳng định rằng thơ không cần có nghĩa, thơ chỉ là âm thanh, là hình ảnh… mà thôi. Thứ thơ ấy trở thành bí hiểm, “hũ nút”, không ai hiểu nổi.

Thế nào là loại văn chương “chuyên chú ở con người”? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết tới con người, luôn hướng tới cuộc sống và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương không phải ở câu hay từ đắt mà ở chỗ có ích cho cuộc đời. Đó chính là quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi Gorki nói: “Văn học là nhân học” thì cũng với tinh thần cơ bản là như vậy. Nhà thơ Tố Hữu cũng phát biểu xác đáng về quan điểm này: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”.

Quan niệm văn chương “chuyên chú ở con người” cũng có những biểu hiện rất đa dạng. Khi Nguyễn Đình Chiểu viết: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, thì với nhà thơ mù, đạo là nhân nghĩa, là yêu nước thương dân, văn chương phải chở đạo và đâm gian tức phải là vũ khí phò chính trừ tà, cứu đời cứu nước.

Các nhà thơ, nhà văn cách mạng thì quan niệm một cách dứt khoát với sự tự giác sâu sắc rằng văn chương phải là vũ khí chiến đấu cải tạo xã hội và văn nghệ sĩ phải là người chiến sĩ đứng trong đội ngũ đấu tranh cách mạng. Đó là biểu hiện cao nhất, triệt để nhất của quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người”.

Vì sao theo Nguyễn Văn Siêu loại văn chương “đáng thờ” là loại "chuyên chú ở con người" chứ không phải loại “chuyên chú ở văn chương”? Nói văn chương “đáng thờ” là Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến chân giá trị, đến cái cao quý của văn chương. “Thần Siêu” đã khẳng định: chính loại văn chương “chuyên chú ở con người” mới thật sự có giá trị, mới “đáng thờ”. Có thể nói, đó là ý kiến chẳng những xác đáng về lí lẽ mà còn có căn cứ trong thực tiễn văn học. Phải chăng nếu “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì văn chương sẽ tự đánh mất mình, sẽ không còn là nó và không mấy giá trị văn chương, nghệ thuật?

Để trả lời câu hỏi này chỉ cần trở lại mệnh đề nổi tiếng dẫn ở trên của Goóc-ki: “Văn học là nhân học”. Con người là trung tâm chú ý, thể hiện của văn học, chứ đâu phải là cái ngoài văn học.

Mặt khác, trong văn chương nghệ thuật, hình thức bao giờ cũng gắn liền với nội dung, hình thức – đó là hình thức của nội dung, không có nội dung thì không có hình thức. Xét đến cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm văn chương chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung của tác phẩm một cách nghệ thuật như thế nào. Đành rằng văn chương là một bộ môn nghệ thuật, tức là nó phải tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp. Nhưng "cái đẹp chính là sự sống”, không có cái đẹp “thuần túy”, trừu tượng, không dính dáng đến cuộc sống con người. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cái đẹp cũng muôn màu muôn vẻ.

Vậy thì “chuyên chú ở con người” đâu phải quay lưng với cái đẹp, văn chương đi ra ngoài con đường của mình? Đâu phải văn chương vì không còn là văn chương, sẽ không có giá trị nghệ thuật? Một tác phẩm văn học có giá trị thì tất nhiên phải có giá trị nghệ thuật, tức là phải hay, phải có văn có nghệ, một nhà văn thật sự phải có tài năng. Nhưng xét đến cùng, cái chủ yếu làm nên giá trị của văn chương lại không phải là hình thức nghệ thuật. Bởi vì, như Nguyễn Du đã viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!”. Cái tâm — đó là tấm lòng, là tình người, tình đời của người cầm bút — mới là cái gốc, làm nên giá trị chân chính của văn chương. Một áng văn thật sự có giá trị thì trước hết là vì nó chứa đựng cái tâm đó của người viết. Những câu thơ Truyện Kiều có sức lay động mạnh mẽ đến thế trước hết là vì đã đọng nỗi đau nhân tình (Tố Hữu) của một nghệ sĩ lớn, một trái tim lớn là Nguyễn Du. Câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà! (Nguyễn Du) có tân kì, có "văn chương" gì đâu, nhưng ai bảo nó không hay, không thuộc loại "đáng thờ"?

Vậy là “chuyên chú ở văn chương” mà văn chương chưa chắc đã hay, còn “chuyên chú ở con người” thì văn chương lại thường hay. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Tâm huyết người viết là cái chủ yếu làm nên sức truyền cảm nghệ thuật, sức lay động của tác phẩm văn chương. Cái tâm thường là nguồn nuôi dưỡng, phát huy cái tài. Còn nhà văn dù tài năng đến dâu, chăm sóc văn chương công phu đến đâu, nhưng không hề quan tâm đến đồng loại, dửng dưng trước số phận con người thì cũng không thể nào sáng tác nên những áng văn có giá trị thật sự được, kể cả giá trị nghệ thuật.

Lịch sử văn học đã từng ghi lại hiện tượng dường như vô lí: có những nhà văn lớn đã tuyên bố những lời giống như phủ nhận văn chương, nhưng họ vẫn thật sự là lớn, với sự nghiệp sáng tác bất hủ; lại có không ít cây bút có tài, coi văn chương là trên hết, nhưng không có nổi những sáng tác có giá trị. Hồ Chí Minh lúc thiếu thời từng tâm đắc câu thơ cổ: Lập thân tối hạ thị văn chương (lặp thân bằng văn chương là thấp kém nhất), nhưng Người vẫn trở thành nhà “văn chương” lớn.

Thực ra, những nhà văn lớn ấy không coi thường văn chương, mà chỉ vì mang nỗi đau nhân tình to lớn, sâu sắc, họ thất vọng về việc văn chương đã không có hiệu quả trực tiếp, thiết thực trong việc làm thay đổi số phận đau thương của con người.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu về hai loại văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ” trên đây rất tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật đẹp đẽ, trở thành truyền thống của cha ông ta. Chính với quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người” mà cha ông ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo với những biểu hiện đa dạng, phong phú, được nền văn học mới kế thừa và phát huy trong thời đại mới hôm nay.

  • 76 lượt xem
Sắp xếp theo