- Tự sự: là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, một ý nghĩa.
- Thuyết minh: trình bày thuộc tính, cấu tạo, nguyên nhân, kết quả... của sự vật, hiện tượng, vấn đề... giúp người đọc có tri thức và thái độ đúng đắn đối với đối tượng được thuyết minh.
- Nghị luận: trình bày tư tưởng, quan điểm, nhận xét, đánh giá... đối với các vấn đề xã hội văn học qua các luận điểm, luận cứ, lập luận có tính thuyết phục.
- Tìm hiểu đề, xác định được yêu cầu bài viết.
- Tìm và chọn ý cho bài văn.
- Lập dàn ý.
- Viết văn bản theo dàn ý đã xác định.
- Đọc lại, sửa chữa và hoàn thiện bài viết.
a. Đề tài cơ bản của văn nghị luận trong nhà trường
- Đề tài của văn nghị luận trong nhà trường gồm nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
- Điểm chung:
- Điểm khác:
b. Lập luận trong văn nghị luận
- Lập luận gồm những yếu tố: luận điểm, luận cứ, phương pháp lập luận.
- Luận điểm, luận cứ và phương pháp lập luận là gì:
- Yêu cầu và cách xác định luận cứ cho luận điểm:
- Các thao tác lập luận cơ bản: giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận.
c. Bố cục của bài văn nghị luận
- Vai trò của phần mở bài là giới thiệu vấn đề cần nghị luận. Phần mở bài cần ngắn gọn, chính xác và đầy đủ. Cách mở bài có thể gián tiếp hoặc trực tiếp.
- Vị trí, nội dung cơ bản của phần thân bài trong các kiểu bài nghị luận đã học: phần chính của bài viết, nằm sau mở bài. Nội dung của thân bài là triển khai các luận điểm, luận cứ của bài viết.
- Phần kết bài có vai trò tóm lược lại nội dung của toàn bài viết, cách kết bài mở rộng và không mở rộng.
d. Diễn đạt trong văn nghị luận
- Yêu cầu của diễn đạt trong văn nghị luận: từ ngữ chính xác, rõ ràng; hạn chế sử dụng khẩu ngữ; tránh sử dụng nhiều từ ngữ mang sắc thái biểu cảm…
- Các lỗi về diễn đạt: dùng từ ngữ thiếu chính xác, lặp từ, thừa từ, dùng từ ngữ không đúng phong cách, sử dụng câu đơn điệu, câu sai ngữ pháp; sử dụng giọng điệu không phù hợp với vấn đề nghị luận…
Đọc các đề bài trong SGK
a. Tìm hiểu đề:
- Hai đề bài trên yêu cầu phải viết kiểu bài nghị luận nào?
⇒ Đề 1: Nghị luận xã hội; Đề 2: Nghị luận văn học
- Những thao tác lập luận nào cần sử dụng trong bài viết?
⇒ Thao tác lập luận cần sử dụng: Đề 1 sử dụng thao tác phân tích, bình luận; Đề 2 sử dụng thao tác phân tích là chủ yếu, ngoài ra có thể kết hợp với bình luận.
Những luận điểm cơ bản nào cần dự kiến cho bài viết?
⇒ Những luận điểm cơ bản:
b. Lập dàn ý cho bài viết
* Đề 1:
1. Mở bài |
- Giới thiệu vấn đề cần bình luận, trích dẫn câu chuyện "Ba câu hỏi". |
2. Thân bài |
- Ý nghĩa của câu chuyện: mục đích của 3 câu hỏi mà Xô-cơ-rát đã đưa ra. - Bình luận và rút ra bài học cho bản thân từ câu chuyện trên. |
3. Kết bài |
- Khẳng định lại tính có ích của câu chuyện và khái quát bài học rút ra được. |
* Đề 2:
1. Mở bài |
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm, đoạn thơ Đất nước và 9 câu thơ đầu. |
2. Thân bài |
- Khi ta lớn lên, đã có rồi: Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước. - Ngày xửa ngày xưa, mẹ thường hay kể: những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lý làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng. - Miếng trầu: phong tục ăn trầu của dân gian gắn với ta nhiều đời nay và gợi nhớ sự tích Trầu cau. - Biết trồng tre mà đánh giặc: gợi nhớ truyền thống chống giặc ngoại xâm và truyền thuyết đầy tự hào của người Việt và truyền thuyết về người anh hùng Thánh Gióng. - Tóc mẹ bới sau đầu: những phong tục lâu đời của người Việt, người phụ nữ để tóc dài và bới lên. - Cha mẹ, gừng cay muối mặn: gắn với câu ca dao của dân tộc, nói về tình cảm thủy chung của người Việt. - Cái kèo, cái cột, hạt gạo, xay, giã, giần, sàng: những vật quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam gắn với lao động sản xuất và nền văn minh lúa nước. - Đất Nước có từ ngày đó: Đất Nước có từ khi dân mình biết yêu thương, sống tình nghĩa, từ ngày dân tộc có nền văn hóa riêng, từ khi dân mình biết dựng nước và giữ nước, từ trong cuộc sống hằng ngày của con người. ⇒ Sự cảm nhận về chiều sâu của lịch sử của Đất Nước thể hiện ngay trong đời sống hằng ngày của nhân dân. |
3. Kết bài |
- Tổng kết về nội dung, nghệ thuật và nêu cảm nhận về đoạn trích. |
c. Tập viết phần mở bài cho từng bài viết
- Đề 1: Mỗi một câu chuyện đều chứa đựng một ý nghĩa nào đó. Và khi đọc “Ba câu hỏi” nhiều người đã nhận ra được một bài học trong cuộc sống.
- Đề 2: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa những xúc cảm nồng nàn và chất suy tư sâu lắng của người trí thức vì đất nước, vì con người. “Đất Nước” trích trong chương 5 trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm phong phú hơn, tươi mới hơn tư tưởng ấy bằng tiếng nói riêng và cách thể hiện độc đáo. Nổi bật trong tác phẩm là chín câu thơ đầu.
d. Chọn một ý trong dàn ý để viết thành một đoạn văn
Đoạn thơ mở đầu bình dị tạo sự gần gũi, thân thiết, viết theo thể khẳng định : “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.” Ta là một khái niệm mơ hồ, không xác định. Đó có thể là bất cứ người dân Việt Nam nào, ở bất cứ thời đại nào. Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; Đất Nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Cách nói ấy thể hiện sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của Đất Nước qua mấy nghìn năm lịch sử nhào nặn. Hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ diễn tả vẻ đẹp Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục: “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể/ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn.” Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời ru của bà, của mẹ. Chính những câu chuyện cổ tích và những bài hát ru thuở còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân – thiện – mỹ và rồi lớn lên ta biết yêu thương đất nước, con người. Không chỉ có trong cái “ngày xửa ngày xưa” , Nguyễn Khoa Điềm còn xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu. Câu thơ gợi nhắc về câu chuyện “Sự tích trầu cau” được xem là xa xưa nhất. Tục ăn trầu cũng từ đó mà nên. Như vậy, thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là bốn nghìn năm gìn giữ phong tục của dân ta. Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống, mà một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.” Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của Đất Nước. Hai chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh. Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt: “Tóc mẹ thì bới sau đầu/ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn/ Cái kèo, cái cột thành tên/ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Đó là vẻ đẹp bình dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong tục tóc “bới sau đầu” (tóc cuộn búi sau gáy) tạo nên vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ, nhẹ nhàng mà thấm đượm nghĩa tình. Gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm muối càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì nghĩa tình càng đong đầy. Từ “cha mẹ thương nhau” mới đi đến “cái kèo cái cột thành tên” . Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ về tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau để nhà vững chãi, bền chặt, tránh mưa gió, thú dữ. Đó cũng là tổ ấm cho gia đình đoàn tụ bên nhau, siêng năng, tích cực góp mỡ dồn máu thành sự sống. Cũng từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột ra đời. Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù, chăm chỉ của ông cha ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Thấm vào trong từng hạt gạo bé nhỏ chính là mồ hôi, vị mặn nhọc của nhân dân bao đời nay. Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”. “Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không rõ, nhưng chắc chắn là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hoá - là có Đất Nước.