Người lái đò sông Đà

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Nguyễn Tuân (1910 - 1987), sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.

- Quê ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

- Khi còn nhỏ, Nguyễn Tuân đã theo gia đình sống ở nhiều tỉnh thuộc miền Trung.

- Ông học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp THCS hiện nay) ở Nam Đinh. Sau khi học xong thì về Hà Nội viết văn, làm báo.

- Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc.

- Từ 1948 đến 1958, ông là Tổng thư ký Hội văn nghệ Việt Nam.

- Ông là một nhà văn lớn, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.

- Nguyễn Tuân có những đóng góp không nhỏ đối với nền văn học Việt Nam hiện đại đó là thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao, góp phần làm phong phú cho ngôn ngữ văn học của dân tộc.

- Nguyễn Tuân được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 1996.

- Một số tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Người lái đò sông Đà là thành quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.

- “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” (1960).

b. Bố cục

Gồm 3 phần:

  • Phần 1. Từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”: Vẻ hung dữ của con sông Đà
  • Phần 2. Tiếp theo đến “dòng nước sông Đà”: Cuộc sống của con người trên sông Đà và hình ảnh người lái đò sông Đà
  • Phần 3. Còn lại : Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà

c. Tóm tắt

Người lái đò sông Đà kể về thiên nhiên hùng vĩ nhất là còn sông Đà và hình ảnh người lái đò tài giỏi, dũng cảm. Con sông Đà nổi tiếng hung tợn và vô cùng hiểm trở với những thác nước, đá ngầm, đá nổi, thạch trận được bố trí vô cùng nguy hiểm nhưng con sông Đà trở nên hiền hòa và có chất thơ hơn khi ngắm nhìn màu nước biến đổi theo mùa và mang đặc điểm riêng. Trên nền của thiên nhiên xuất hiện hình ảnh người lao động đó là người lái đò sông Đà những người thực hiện nhiệm bảo chèo lái con thuyền vượt sông Đà. Ông lái đò khỏe mạnh, rắn chắc và có thừa sự dũng cảm. Ông trong nghề đã nhiều năm và nắm vững bố trí bãi đá, con thác, thạch trận…mọi thứ đều lão ghi nhớ và nắm trong lòng bàn tay. Để chèo lái con thuyền vượt qua sông Đà thành công ông phải kết hợp kinh nghiệm của bản thân và sự dũng cảm, gan dạ. Sau khi trở về bến ông và những người bạn còn toát lên vẻ đẹp của sự tài hoa và khiêm nhường họ xem những thử thách vừa trải qua là những công việc thường ngày.

d. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung tâm của tác phẩm đó là ông lái đò - một người lao động tại vùng sông nước Tây Bắc. Ông lái đò vừa có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có phẩm chất của một người nghệ sĩ tài hoa.Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến một hình tượng không kém phần quan trọng của tác phẩm: con sông Đà. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng. Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp của con người lao động ở vùng núi Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê hương đất nước.

e. Ý nghĩa lời đề từ

Trước kết, lời đề từ được hiểu đơn giản là những câu văn hoặc câu thơ ngắn gọn, cô đọng dẫn ra ở đầu tác phẩm hoặc chương sách để thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm hoặc của chương sách đó.

Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng hai lời để từ:

“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”

(Nhà thơ Ba Lan - W. Broniewski)

Và:

“Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”

(Nguyễn Quang Bích)

Dịch nghĩa:

“Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông
Chỉ có sông Đà là chảy về hướng bắc”

Hai lời đề từ trên đều không phải được Nguyễn Tuân sáng tà mà do nhà văn mượn câu thơ của nhà cách mạng người Ba Lan và nhà thơ Nguyễn Quang Bích.

Ý nghĩa lời đề từ: Trong lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Câu thơ thể hiện cảm xúc dâng trào mãnh liệt của tác giả trước vẻ đẹp của tiếng hát trên dòng sông. Tiếng hát trên dòng sông ở đây gợi ra nhiều liên tưởng thú vị cho người đọc. Đó có thể là tiếng hát của người lao động vùng núi Tây Bắc khi họ đang làm việc. Cũng có thể là tiếng hát say mê của đời của nhà văn khi ngắm nhìn thiên nhiên Tây Bắc. Dù hiểu theo cách nào thì lời đề từ trên cũng đã bộc lộ được cảm hứng chủ đạo của tác phẩm đó là tình yêu thiết tha của nhà văn với thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Trong lời đề từ thứ hai là câu thơ của Nguyễn Quang Bích đã nhấn mạnh vào đặc điểm khác biệt của con sông Đà về địa lí tự nhiên. Mọi dòng sông trên đất nước Việt Nam đều chảy theo hướng đông, chỉ có sông Đà là chảy theo hướng bắc. Qua đó, Nguyễn Tuân muốn gợi mở cho người đọc hình ảnh mà chúng ta chưa biết về sông Đà. Đó là một con sông vừa hung bạo nhưng cũng rất đỗi thơ mộng. Câu thơ không chỉ bộc lộ được nét độc đáo của con sông Đà mà còn khắc họa được nét tính cách của Nguyễn Tuân - “ngông” - một con người luôn khao khát tìm tòi và khám phá cái đẹp cái lạ.

Như vậy, hai lời đề từ một hướng đến vẻ đẹp của con người, một hướng đến vẻ đẹp của thiên nhiên (cụ thể là sông Đà) đã khái quát được nội dung tư tưởng mà nhà văn Nguyễn Tuân muốn gửi gắm trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”.

II. Trả lời câu hỏi

Câu 1: Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.

- Trước hết, Người lái đò sông Đà là thành quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.

- Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh con sông hiện lên với vẻ đẹp hung bạo và trữ tình, người lái đò vừa tài hoa lại vừa bình dị. Dù là hình ảnh con sông hay người lái đò, Nguyễn Tuân đều khắc họa sinh động, tỉ mỉ dưới nhiều góc độ khác nhau.

⇒ Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà

Câu 2: Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo.

Hình ảnh so sánh, so sánh kết hợp với nhân hóa:

  • Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
  • Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
  • “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
  • Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.
  • “Thế rồi nó rống lên… ”, so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

- Sử dụng cấu trúc trùng điệp: Ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…” .

- Sử dụng từ ngữ phong phú thuộc nhiều ngành nghề khác nhau: thể thao: tiền vệ, tuyến giữa…, quân sự: thạch trận, đánh giáp lá cà…

Câu 3: Cách viết của nhà văn đã thay đổi thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình.

Khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình, cách viết của nhà văn trở nên uyển chuyển hơn, tinh tế hơn. Nguyễn Tuân đã khắc họa con sông trữ tình dưới nhiều điểm nhìn khác nhau:

- Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.

- Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.

- Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Câu 4: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.

Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

- Trùng vây thứ nhất: Ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.

- Trùng vây thứ hai: Ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.

- Trùng vây thứ ba: Ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

⇒ Ông lái đò chính là “chất vàng mười đã qua thử lửa” của vùng cao Tây Bắc.

Câu 5: Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

- “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt”: Hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

- “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác”: Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

- “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”: Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông.

- Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”: Con sông giống như người thiếu nữ dịu dàng, đẹp đẽ.

- “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”: So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

III. Đọc - hiểu văn bản

1. Hình tượng người lái đò sông Đà

a. Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động

- Ngoại hình: Tuổi ngoài bảy mươi nhưng thân hình vạm vỡ như chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường.

- Nghề nghiệp: Làm nghề lái đò trên sông Đà đã nhiều năm: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...”. Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần... Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.

b. Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ

Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

- Trùng vây thứ nhất: Ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.

- Trùng vây thứ hai: Ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.

- Trùng vây thứ ba: Ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

⇒ Ông lái đò chính là “chất vàng mười đã qua thử lửa” của vùng cao Tây Bắc.

2. Hình tượng con sông Đà

a. Vẻ đẹp hung bạo

- Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác đá mà còn có “đá bờ sông, dựng vách thành”, có “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”.

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.

- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”.

- Thác nước sông Đà: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”

- Thạch trận sông Đà: đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”... Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận.

⇒ Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, kẻ thù số một của con người.

b. Vẻ đẹp trữ tình

- Khi từ tàu bay nhìn xuống:

  • “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
  • Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:

  • Niềm vui khi bắt gặp dòng sông: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
  • Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:

  • Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
  • Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”

⇒ Sông Đà mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng.

Tổng kết:

- Nội dung: Người lái đò sông Đà đã ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.

- Nghệ thuật: sử dụng ngôn ngữ giàu có uyên bác thuộc nhiều lĩnh vực, sử dụng thành công thể tùy bút pha bút ký…

IV. Luyện tập

Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) thấy yêu thích, say mê nhất trong phiên tùy bút.

Cảnh vượt khác trong tùy bút Người lái đò sông Đà:

1. Mở bài

- Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà: Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam. Bài tuỳ bút có chất văn độc đáo, mới lạ được sáng tạo nên từ ngòi bút tài hoa và uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

- Dẫn dắt đến nội dung cần phân tích: Cảnh vượt thác của ông lái đò - một cảnh tượng có một không hai.

2. Thân bài

a. Khái quát về cảnh vượt thác

- Cảnh vượt thác của ông lái đò nằm ở phần thứ hai: Cuộc sống của con người trên sông Đà và hình tượng ông lái đò.

- “Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao tướng dữ quân tợn.

- Được Nguyễn Tuân gọi là cảnh tượng có một không hai.

b. Phân tích cảnh vượt thác

* Vòng đấu thứ nhất:

- Con sông Đà:

  • Thạch trận với bốn cửa sinh và một cửa tử.
  • Nước thác reo hò làm thanh viện cho đá.
  • Sóng thác đã đánh miếng đòn hiểm độc nhất bóp chặt lấy hạ bộ.

⇒ Không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp

- Ông lái đò:

  • Thạch trận dàn bày vừa xong thì con thuyền vut tới.
  • Mặt ông lái đò méo xệch đi.
  • Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng.

⇒ Con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.

* Vòng đấu thứ hai:

- Con sông Đà:

  • Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn
  • Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá

⇒ Con sông Đà trở nên khôn ngoan hơn.

- Ông lái đò:

  • Nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá.
  • Ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh.

⇒ Vượt qua hết cửa tử.

* Vòng đấu thứ ba:

  • Ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ.
  • Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.

⇒ Con sông ngày càng mưu mẹo muốn dồn người lái đò vào chỗ chết.

- Ông lái đò:

  • Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.
  • Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được.

⇒ Ông lái đò đã chiến thắng con sông hung dữ.

3. Kết bài

Cảm nhận chung về cảnh vượt thác: Cảnh vượt thác trong “Người lái đò sông Đà” đã trở thành một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” góp phần tô đậm chất tài hoa nghệ sĩ của người lái đò sông Đà. Còn Nguyễn Tuân đích thực là một nhà văn của cái đẹp.

  • 56.937 lượt xem
Sắp xếp theo