Lịch sử đất nước với nhiều cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt và ngoan cường để bảo vệ đất đai, bờ cõi hoặc độc lập tự do; ấn tượng sâu sắc nhất về trận đánh.
- Hoàn cảnh tiếp xúc với câu chuyện.
- Khái quát về trận chiến đấu.
- Diễn biến chính của cuộc chiến đấu (trọng tâm)
- Tự hào về trang sử vẻ vang, hào hùng.
Nhà Tây Sơn gồm 3 anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kỳ đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam những năm 30 cuối thế kỉ XVII, Lê Chiêu Thống rất lo sợ cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Văn Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quân Thanh xâm lược nước ta; Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương, Ngô Văn Sở cho quân rút lui về Tam Điệp nghĩa là nước ta mất từ cửa ải phía Bắc đến Thăng Long. Nghe được tin cấp báo Bắc Bình Vương giận lắm. Biết là biến cố lớn ông quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.
Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại, xin ngài trước hết hãy chính vị hiệu; loan lệnh ân xá khắp trong ngoài nước để yên kẻ phản trắc và giữ gìn lòng dân rồi sau cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc thuộc là chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngoài khoác lên mình chiếc long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu đội mũ miện cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang lên đàng tế lễ trời đất. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đổi năm 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu tiên niên hiệu Quang Trung.
Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng Chạp (1788). Vua Quang Trung đã tự mình đốc thúc quân lính cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 ở Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp người có tài tiên đoán để hỏi về mưu đánh và giữ Nguyễn Thiếp trả lời: chuyến này đi không quá 10 ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng hám hổ đầu tuyển lính ở Nghệ An. Cứ ba suất đinh thì lấy một người ai cũng có thân hình vạm vỡ bắp tay cuồn cuộn. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn người, quân tinh nhuệ hàng ngũ thẳng tắp, cờ trống rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu. Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn chia làm tiền, hữu, tả, hữu là số quan ở Thuận Hóa, Quảng Nam. Còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại an ủi quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin ý chí quyết thắng của quân đội chính nghĩa. Nghe xong các quân lính đều xin vâng lệnh, không dám ăn ở hai lòng. Hôm sau, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi.
Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân đều ra đón, mang gươm trên lưng mà xin chịu tội. Vua phân tích rõ công và tội của Sở và Lân. Vua đã cho Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc cùng Sở và Lân nhằm mục đích bày mưu tính kế. Vua Quang Trung lại nói lần này phương lược tính sẵn rồi chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh. Nhưng chúng gấp mười lần nước mình thua đau sẽ trả thù đời thì đời sống của nhân dân sẽ vô cùng khốn khổ vì nạn binh đao. Chờ mười năm nữa nước ta lớn mạnh có sợ gì chúng. Bọn Sở và Lân đều lạy tạ, trong lòng chúng thấy rất rõ sự am hiểu, quân lệnh nghiêm chỉnh và vô cùng cảm kích trước sự vị tha độ lượng của vua Quang Trung. Đêm 30 tháng Chạp vua cho mở tiệc ăn khao quân, chia quân làm ba đạo và bảo kín với các tướng đêm lập tức lên đường hẹn ngày mùng 7 năm tới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Giọng nói người sang sảng âm vang khắp quân lính. Xong bữa tiệc ai cũng vui mừng, vui chơi thỏa thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra bắc. Để giữ sức cho binh lính vua cho dùng cáng làm võng cứ 2 người khiêng 1 người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài nhưng vì lòng yêu nước yêu tổ quốc nghĩ đến lời an ủi của vua binh lính lại phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu. Nghĩa binh giặc trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt vừa cho binh lính chạy theo bắt sống được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai về báo tin. Việc tiến quân của ta là hoàn toàn bí mật đến đồi Hà Hồi, Ngọc Hồi.
Nửa đêm ngày mùng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789) vua tới đồn ở làng Hà Hồi huyện Thượng Phúc lặng lẽ vây kín làng rồi dùng kế nghi binh bắc loa truyền gọi: "Quân". Tiếng quân lính luân phiên nhau:
- Dạ...dạ...
Vang khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy run lẩy bẩy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết. Vua lại truyền lấy 60 tấm ván, cứ ghép liền 3 tấm thành 1 bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác dùng binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. Mờ sáng ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng phun khói lửa ra, khói tỏa mù mịt, cách gang tấc không nhìn thấy gì hòng làm quân ta hoảng loạn. Không ngờ trời bỗng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo 2 bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy toán loạn giày xéo lên nhau mà chết. Tên Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối quân Thanh đại bại.
Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê yên duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía Đông. Đến lúc ấy, quân Thanh đều hết hồn vía, vội vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành lại nói không nghe thấy tin cấp báo nên trong này Tết mọi người chỉ chăm chú đến yến tiệc. Nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổ. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng Bắc mà chạy. Quân Sĩ nghe tin hoảng hồn, tan tác bỏ chạy đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính rơi xuống nước đến nỗi nước ở sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Quân ta ăn mừng chiến thắng vô cùng giòn giã.
Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước ta là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Hằng năm dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh rất thần tốc.
Đêm đã rất khuya…
Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang vọng.
Sự yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn sáng.
Bên chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào? Làm cách nào? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần !
Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa - năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng hẳn.
Trần Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đi theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào nó.
Nhìn cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và mạnh.
Tại đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo nhiệt.
Trên bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con dấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần thiết.
Người làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến công.
Giữa lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho xiết.
Thấm thoát đến chiều tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đấu.
Trống đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi lau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thớt.
Trọng thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng: “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh!”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dần.
Bỗng dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn: “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra: Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ: “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở lại.
Sinh ra khi đất nước đã hòa bình, cũng chưa từng trải qua khó khăn, tôi chưa cảm nhận được hết nỗi mất mát của dân tộc. Cho đến khi những đồng đội cũ đến nhà thăm ông nội tôi, tôi đã cảm nhận được nhiều điều khi nghe các ông cùng ôn lại những kỉ niệm xưa, trong đó có trận đánh Điện Biên Phủ oanh liệt.
Ngày ấy lên đường mới đơn giản làm sao, ngay cả quân tư trang cấp cho những người trẻ tuổi cũng chỉ hai bộ áo quần, một đôi dép lốp và thêm chút gạo. Họ ra đi với lời kêu gọi: “ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông nội tôi khi ấy đang đi học ở Bắc Giang, còn hai người bạn của ông ở nhà cày ruộng, nhưng khi đã lên đường, họ đều chung một lòng hướng về Việt Bắc, quê hương cách mạng với quyết tâm đến Điện Biên Phủ, giành lại Mường Thanh.
Đó là trận đánh đầu tiên quân đội ta có pháo binh tham gia, điều đó càng tăng thêm niềm tin, ý chí và hi vọng cho nhân dân. Vậy nhưng, kẻ địch lúc đó của chúng ta là thực dân Pháp, một trong những cường quốc hàng đầu thế kỉ XX. Quân đội Pháp chiếm cứ ở Điện Biên Phủ khi đó có đến ba trăm tiểu đội với vũ khí hiện đại nhất. Bao lần máy bay đến tiếp viện đã biến nơi này thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Trước tình hình đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với mười hai đêm không ngủ đã hạ lệnh đổi hướng chiến lược, không thể “đánh nhanh thắng nhanh” trong ba ngày hai đêm như dự tính ban đầu mà phải đánh chắc thắng chắc. Ngày ấy, nếu Đại tướng không thay đổi chiến lược, ông tôi cùng những đồng đội của mình có lẽ đã không thể trở về và nhiều chiến sĩ khác cũng không thể tiếp tục tham gia góp sức mình vào kháng chiến chống Mĩ.
Chuyển hướng “đánh chắc thắng chắc”, chúng ta có hơn một tháng để chuẩn bị, cũng có thời gian để vận chuyển pháo binh lên trận địa. Mỗi khẩu pháo có trọng lượng hơn hai tấn phải tháo dỡ từng bộ phận, trôi phà theo sông Hồng rồi chuyển đến cứ địa lắp ráp lại. Đoạn đường ấy có khi lên đến bốn trăm cây số qua đèo cao, suối sâu mà vẫn không nguy hiểm, ác liệt bằng ba mươi cây số từ trung tuyến vào trận địa. Để qua đoạn đường ác liệt này, các chiến sĩ của ta phải kéo pháo bằng tay, hoàn toàn dùng sức người và sự đồng tâm hiệp lực phi thường vượt qua gian khó. Và quyết tầm ấy đã đưa pháo của ta đặt trên những cao điểm chót vót, trở thành bất ngờ lớn đối với tập đoàn cứ điểm Điện Biên.
Ông nội tôi khi đó đang ở sư đoàn 308, nhận được lệnh cùng các chiến sĩ khác hành quân đến Luông Pha Băng. Động thái này buộc Navarre cho quân nhảy dù xuống Bắc Lào đối phó. Các sư đoàn khác cũng nhận được lệnh hành quân về nhiều hướng khác nhau khiến quân đội Pháp tưởng rằng chúng ta đang rút khỏi Điện Biên và từ bỏ ý định giành lại nơi đây. Sau đó, quân ta tiếp tục chuẩn bị thêm hai tháng. Khi hầm hào và đường kéo pháo đã xong, sư đoàn của ông nội tôi nhận lệnh bí mật trở lại Điện Biên Phủ. Đây cũng là lúc quần địch yên tâm chúng đã tạo ra một pháo đài bất khả xâm phạm. Ngày 12 tháng 3 năm 1954, Navarre đọc nhật lệnh thông báo cuộc tiến công của ta vào Điện Biên Phủ đã tàn lụi. Ông ta không ngờ được rằng, lúc 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, lệnh tấn công của quân ta vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu.
Cứ điểm Him Lam bị tiêu diệt hoàn toàn trong đêm hôm đó. Sự bất ngờ đó không còn là yếu tố quan trọng với địch khi ta tiến đánh đồi Độc Lập vào đêm hôm sau. Khi đánh cứ điểm Độc Lập, hai đồng đội của ông tôi dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng, Thiếu tướng Đào Đình Sử, có nhiệm vụ mở chướng ngại vật - mười lăm lớp rào dây thép gai của địch dày đến 80m. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt ngay từ phút đầu. Quả địa pháo đầu tiên phát nổ, cả trận địa pháo ở Mường Thanh sau lưng đại đội của ông đã bắn tới tấp, súng bắn thẳng và súng cối từ trong đồn tập trung bắn vào cửa hầm. Đại đội vừa tiến công, vừa phải thu nhặt những trái bom của đồng đội ngã xuống. Khi còi hiệu lệnh vang lên, đại đội của ông chỉ còn bảy người, hơn trăm chiến sĩ đã ngã xuống. Khi nghe các ông kể đến sự việc này, không chỉ người kể nghẹn ngào mà chính tôi cũng không cầm được nước mắt. Với mỗi trận đánh, sự hi sinh gần như là quy luật hiển nhiên nhưng mỗi người nằm xuống có ý nghĩa như một hiệu lệnh tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội chiến đấu anh dũng và kiên cường hơn nữa.
Trong năm mươi lăm ngày đêm đánh trận Điện Biên Phủ, chúng ta chỉ có hai mươi tư khẩu pháo trong khi địch có tới sáu mươi khẩu. Điều đó đòi hỏi quân đội ta phải có một lối đánh chiến lược khôn khéo, bố trí trận địa hiểm hóc và phân tán. Cũng nhờ chiến lược ấy, ta đã bắn hơn hai trăm quả pháo, góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ mà chỉ hỏng một chiếc càng pháo. Sau hai ngày không làm câm họng pháo binh của ta, trung tá Pierre vốn là chỉ huy pháo binh của Pháp đã phải tự sát.
Phải trực tiếp nghe những người chiến sĩ tham chiến kể lại trận Điện Biên Phủ đầy cam go và mất mát, tôi mới hiểu vì sao sự kiện Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần lại khiến cả dân tộc đau đớn đến vậy. Nghĩ về một thời kì oanh liệt đã qua của cha ông, tôi càng thêm biết ơn và tự hào khi được là cháu của một người lính thanh niên xung phong, một người lính bộ đội Cụ Hồ. Hình ảnh những người lính năm xưa nay mặc quần phục chỉnh tề, đôi mắt đỏ hoe và những đôi bàn tay đã nhăn nheo, đồi mồi nắm chặt tay nhau xếp hàng vào dâng hương lên Đại tướng sẽ là hình ảnh tôi không bao giờ quên được. Cùng các ông nối vào dòng người đưa tiễn Đại tướng ngày hôm ấy, chưa bao giờ khát khao được làm những điều ý nghĩa lại mạnh mẽ đến thế trong lòng tôi.
Năm nay theo gia đình đi du lịch, tôi được dự lễ kỷ niệm 40 năm huyền thoại Ngã ba Đồng Lộc đã được tổ chức từ 16-24/7/2008 bằng một chương trình hoành tráng, tôn nghiêm. Được về dự tôi mới được hồi tưởng lại trận chiến ác liệt mà năm đó những người thanh niên xung phong đã làm nên lịch sử.
Những nhân chứng sống của cuộc chiến đã bắt đầu hồi tưởng lại trận chiến năm ấy. Mùa thu năm 1968, từ Thạch Hà ra Hồng Lĩnh, máy bay Mỹ đánh phá ác liệt ngày đêm. Quốc lộ 1A bị tắc nghẽn, hệ thống cầu cống bị máy bay địch phá hủy hoàn toàn. 130 chiếc xe chở xăng dầu vào Nam bị tắc lại ở phía Nam huyện Can Lộc, do cầu Dà bị cắt đứt. Đoàn xe phải tấp vào làng Hạ Lôi, xã Tiến Lộc. Trước hoàn cảnh đó, Bộ Chính trị, Bộ Giao thông Vận tải cùng với Ban đường bộ giao thông của tỉnh Hà Tĩnh đưa ra quyết định bất ngờ: Chia làng Hạ Lôi ra làm đôi.
Sáng ngày 13/8/1968, sau khi tiếp thu mệnh lệnh từ cấp trên, ban lãnh đạo xã tiến hành họp dân, với khẩu hiệu: xe chưa qua là nhà không tiếc. Sau đó các công tác như bố trí người già, trẻ em đến chỗ an toàn, tất cả các lực lượng được tập trung khẩn trương để chuẩn bị phá nhà, mở đường cho cho xe qua. Cả làng hưởng ứng rất nhiệt tình, ai có gì là mang ra góp sức. Nhà dỡ đến đâu thì các lực lượng công binh, thanh niên xung phong làm đường đến đó. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, 130 ngôi nhà đã được tháo dỡ, đường xe đã mở xong. Đến 3 giờ sáng, con đường xuyên qua làng đã hoàn tất. Chiếc xe đầu tiên đã lăn bánh đến phà và qua cầu an toàn. Để bảo vệ bí mật và che mắt địch, bộ phận dân quân và nhân dân Hạ Lôi bắt khum những ngọn tre lại với nhau, làm ngụy trang. Con đường chạy trong làng được giữ bí mật cho đến ngày ngừng bắn.
Trong một đêm, người dân dời, dọn 130 nóc nhà, làm đường cho 130 xe chở hàng ra tiền tuyến, Ban đảm bảo giao thông tỉnh đặt tên làng Hạ Lôi là làng K130. Thế mà, nay tên làng từ thời chiến đang còn, con đường thời chiến lại không. Vừa kể lại trận chiến người kể lại đi theo những dấu tích còn sót lại. Mỗi dấu tích lại hiện lên một nét bùi ngùi xúc động, xúc động vì mình may mắn sống sót, xúc động vì những đồng đội đã hi sinh để mình được sống, được hưởng cuộc sống tươi đẹp hôm nay.
Thời gian qua đi những dấu tích của chiến tranh đã không còn nguyên vẹn, nhưng nó sẽ còn nguyên trong tiềm thức của những nhân chứng, và những nhân chứng ấy đã kể lại cho tôi, cho thế hệ trẻ nghe và cảm nhận được sự ác liệt của chiến tranh, sự mất mát hi sinh mà cha ông ta đã đánh đổi, để chúng ta có cuộc sống này. Nghe rồi hành động, chúng ta hãy xây dựng và bảo vệ đất nước thêm giàu đẹp, xứng đáng với những gì mà cha ông đã tạo ra cho chúng ta.