- Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú bằng chữ Hán.
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ có thể được sáng tác vào thời điểm sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh và trước khi Nguyễn Trãi lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ được sưu tầm và xếp vào Ức Trai thi tập.
- Bố cục: chia bài thơ thành hai phần:
- Vẻ đẹp của núi Dục Thúy sống động, như một bức tranh: Dáng núi như đóa hoa sen nổi trên mặt nước, bóng tháp soi xuống mặt nước như chiếc trâm ngọc xinh đẹp, mặt nước phản chiếu hình ảnh ngọn núi như cô gái đang soi mái tóc mềm mượt của mình.
- Cách miêu tả độc đáo của tác giả trong hai câu thực: Sử dụng phép đối giữa phù và trụy (nổi và rơi), thiên nhiên ở đây được cảm nhận theo chiều thẳng đứng.
- Biện pháp nghệ thuật: So sánh (Bóng tháp như cài chiếc trâm ngọc xanh) và nhân hóa (Ánh sáng trên sóng soi gương búi tóc biếc).
- Những hình ảnh “trâm thanh ngọc”, “kính thúy hoàn” có tác dụng làm cho bức tranh thiên nhiên núi Dục Thúy trở nên sinh động, giống như một thiếu nữ xinh đẹp, yểu điệu.
- Mạch cảm xúc: Cảm nhận vẻ đẹp của núi Dục Thúy đến bộc lộ nỗi niềm của Nguyễn Trãi.
- Tác giả nhắc đến Trương Thiếu bảo: Trương Thiếu bảo tức Trương Hán Siêu, một danh sĩ đời Trần có bài thơ nổi tiếng về núi Dục Thúy được khắc bên sườn núi.
- Ý nghĩa: Đây là nỗi niềm hoài cổ thường gặp trong thơ ca, đặc biệt là với một nhà thơ như Nguyễn Trãi luôn đau đáu trước sự thay đổi của thế thái thì việc nhớ về người xưa là điều rất tự nhiên, đó cũng là đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
- Hình ảnh ấn tượng nhất: Hoa sen nổi trên mặt nước, cảnh tiên sa xuống cõi trần.
- Nguyên nhân: Hình ảnh đã khắc họa bức tranh thiên nhiên ở núi Dục Thúy đầy thơ mộng, huyền ảo như lạc vào cõi thần tiên.