- Xác định đề tài: Đề tài của bài nói là bài thơ mà bạn chọn để giới thiệu. Bạn có thể sử dụng bài thơ mình đã thực hiện bài viết. Nếu chọn bài thơ khác, bạn sử dụng tiêu chí lựa chọn như bài viết.
- Việc xác định mục đích nói, đối tượng, người nghe, không gian và thời gian nói; tìm ý, lập dàn ý và luyện tập: bạn có thể thực hiện như đã tiến hành giới thiệu một truyện kể.
Bạn thực hiện bước này như khi trình bày bài nói giới thiệu, đánh giá nội dung, nghệ thuật của một truyện kể. Nhưng lưu ý:
- Thể hiện được cảm nhận riêng của mình về bài thơ.
- Giọng đọc, giọng nói cần truyền cảm, nhất là khi đọc bài thơ và cách trích dẫn thơ
- Trao đổi: Khi trao đổi với người nghe, bạn cần:
- Đánh giá: Trong vai trò của người nói, người nghe có thể đánh giá theo hướng dẫn.
Rằm tháng giêng là một trong những bài thơ tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ được Bác Hồ sáng tác khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954):
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất
Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Bài thơ “Rằm tháng giêng” đã miêu tả hình thanh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng giêng. Qua đó nhà thơ đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên, tấm lòng yêu nước và niềm tin chiến thắng vào sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Hình ảnh ánh trăng rất quen thuộc trong thơ ca. Đó là ánh trăng nhớ quê hương trong thơ Lí Bạch:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương”
(Ngẩng đầu ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương)
Đó cũng có thể là ánh trăng trong thơ Bác, với bài Cảnh khuya:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Đến “Rằm tháng giêng”, ánh trăng xuất hiện với nét độc đáo. Trước hết, đây không phải là một đêm trăng bình thường, mà là đêm rằm tháng giêng. Trăng đang ở độ tròn đầy nhất, đẹp nhất và sáng nhất - “nguyệt chính viên”. Bởi vậy, ánh sáng của trăng chiếu xuống cảnh vật khiến cho thiên nhiên tràn đầy sức sống, vẻ đẹp. Đến câu thơ tiếp theo, Bác đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ - từ “xuân” được nhắc lại ba lần. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Thiên nhiên lúc này đang nhuốm đậm sắc xuân. Mọi vật tràn đầy sức sống đang căng mình trỗi dậy giữa đất trời. Như vậy, hai câu thơ đầu đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên đêm trăng vô cùng sinh động.
Đến với hai câu thơ tiếp, con người đã xuất hiện, nhưng với tư cách là chủ thể trữ tình:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân
Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Trong hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh, mọi hoạt động đều phải diễn ra một cách kín đáo. Nhưng trong Rằm tháng giêng, con người vẫn xuất hiện với tư cách là trung tâm của vũ trụ. Trong đêm trăng, Bác và cán bộ chiến sĩ đang bàn bạc việc quân. Đó là công việc quan trọng, có tính quyết định đến sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đến khi xong xuôi, trời cũng đã về khuya. Lúc này, Bác mới chợt nhận ra vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.
Bài thơ “Rằm tháng giêng” mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đình thi là nhà thơ miệt mài, cần cù trong suốt hành trình nghệ thuật của mình, hơn 60 năm cầm bút ông đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ thuộc nhiều loại hình khác nhau, song thơ là lĩnh vực ông dành nhiều tâm huyết nhất. Mỗi bài thơ của ông đều mang bản sắc riêng rõ nét, “Lá đỏ” là một điển hình, tiêu biểu cho cả nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi.
Bài thơ được sáng tác năm 1974, giai đoạn đất nước ta chuẩn bị tổng tiến công, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ có nội dung, cảm hứng chủ đạo là niềm tin vào sự chiến thắng của dân tộc. Tác phẩm như một lời dự cảm về ngày mai tươi sáng của đất nước, khi chúng ta đã dành được độc lâp, tự do, hòa bình.
Chỉ với tám dòng thơ ngắn gọn nhưng súc tích, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả một cuộc hành quân trường kì, vĩ đại của đất nước ta trong cuộc chiến tranh khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc. Đó là cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, bộ đội tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ được viết khi nhà thơ được trực tiếp đến và trải nghiệm cuộc sống ở Trường Sơn - cũng là lí do cho những dòng viết chân thực và sống động trong thơ ông.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ:
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”
Có thể cảm nhận được vị trí nơi nhà thơ đứng là đỉnh Trường Sơn “cao lộng gió”, một nơi có thể phóng tầm mắt nhìn ra bao la, rộng lớn và bao quát. “Trên cao” còn có hàm ý về vị thế trong tư tưởng, tình cảm - tức cao quý, cao cả. Hai chữ “lộng gió” tựa như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới, đón chào những luồng gió Cách mạng. Từ đỉnh núi, ông thấy được cảnh thiên nhiên đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”. Từ láy “ào ào” được sử dụng độc đáo, gợi ra cảnh một cơn cuồng phong làm nên trận “mưa” lá đỏ tuôn trào, mãnh liệt như sức sống Trường Sơn. Màu đỏ của lá tựa như màu đó của lá cờ Tổ quốc, của dòng máu chảy trong mỗi trái tim người con đất Việt.
Hai câu thơ tiếp theo xuất hiện bóng dáng con người, hình ảnh thật đẹp trong cuộc chiến tranh nhân dân - “em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong:
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường.”
Sự có mặt của những cô gái trên đỉnh Trường Sơn đã góp phần tạo nên một thời kì huy hoàng của Tổ quốc, một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trong đó có cả những cô gái trẻ trung, xinh đẹp mà lẽ ra được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Hình ảnh những cô gái bên đường Trường Sơn gợi nhắc về hình ảnh những cô thanh niên xung phong trên cao điểm trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê). Có biết bao chàng trai, cô gái ngày đêm không ngừng nghỉ, thậm chí hi sinh cả tính mạng vì sự nghiệp của Tổ quốc, tất cả đã cùng làm nên những trang lịch sử chói lọi, làm nên “Đất Nước muôn đời”. Hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” thật giản dị, thân thương. Đó là chứng tích sau biết bao tháng ngày dầm mưa dãi nắng; cũng là hình ảnh nổi bật giữa núi rừng Trường Sơn “ào ào lá đỏ”.
Trong những năm tháng máu lửa của thời kì kháng chiến chống Mỹ, Trường Sơn đã trở thành trận địa thiêng liêng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”
Con đường hành quân đầy gian khổ, khốc liệt. Ta nhớ về hình ảnh con đường hành quân của những người lính Tây Tiến nơi núi rừng Tây Bắc: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”. Con đường càng đi như các thách thức ý chí của những người chiến sĩ. Song, đoàn quân “vẫn đi vội vã” với những bước chân hối hả, trùng điệp, rung chuyển đất trời: “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Câu thơ gợi khung cảnh hào hùng, không khí sử thi hào tráng ở những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Những đoàn quân cứ thế, nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, nhà thơ - chiến sĩ chỉ kịp ghi lại dáng hình quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:
“Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.”
Sài Gòn - cái đích của cuộc hành quân, cuộc tiến công đã thật gần, con đường chạm tới chiến thắng, độc lập, tự do không còn xa. Lời chào, lời hẹn ước ấy chưa đựng biết bao nhiệt huyết của tuổi trẻ, khát khao, lý tưởng cao đẹp.
Không chỉ tạo ấn tượng sâu sắc về nội dung, bài thơ cũng mang những yếu tố hình thức nghệ thuật đặc sắc. Yếu tố chính làm nên thành công của bài là hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ thơ. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh sống động: lá đỏ, cô em gái tiền phương, đoàn quân - có sức gợi tả, khái quát cao cho vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam. Về nhịp điệu, cơ bản xuyên suốt bài thơ là nhịp điệu của bước chân hành quân dồn dập, chắc khỏe. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi và chân thực, hình ảnh cuộc sống nơi chiến trường hiện lên tự nhiên, sống động.
Những cuộc kháng chiến đã qua đi, thời gian cũng dần phủ bụi nhưng kí ức về những năm tháng ấy có lẽ không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhiều năm sau, độc giả vẫn sẽ nhớ về những năm tháng ấy, nhớ về tuyến đường Trường Sơn “ào ào lá đỏ”, nhớ hình ảnh những cô gái tiền phương, những chàng trai chiến sĩ với những bước đi rung chuyển đất trời. Có lẽ vì vậy mà Balzac đã từng nói những người nghệ sĩ làm văn, viết thơ là “thư kí trung thành của thời đại”.