- Nhà thơ Lưu Trọng Lư (1911 - 1991): là người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ 3 tại Quốc học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống.
- Nhà phê bình – nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn (1962 - 2019):
+ Quê quán: Phường Đông Hương, Thành phố Thanh Hóa, Tỉnh Thanh Hóa
+ Giảng viên đại học Sư phạm Hà Nội 1. Bộ môn: Văn học hiện đại và đương đại.
Rút trong tập “Tiếng thu” (1939) gồm 52 bài.
Qua những bài đã học về thơ, hãy chia sẻ những điều bạn thấy thú vị và khó khăn khi tiếp cận một bài thơ trữ tình.
- Thú vị: Một bài thơ trữ tình thường ngắn gọn, dễ thuộc và dễ nhớ, giàu cảm xúc và giá trị nội dung, nghệ thuật.
- Khó khăn: Những hình ảnh, từ ngữ trong thơ thường giàu tính biểu tượng, thơ ngắn gọn nên cần phải tìm hiểu sâu mới hiểu được.
Câu 1: Trước khi đọc tiếp văn bản của Chu Văn Sơn, hãy dừng lại đọc bài thơ của Lưu Trọng Lưu và liệt kê những yếu tố hình thức ở bài thơ có thể gây ấn tượng và liên tưởng mạnh ở người đọc.
- Trong một khổ thơ, chỉ viết hoa chữ cái đầu của dòng thứ nhất, các dòng còn lại viết thường.
- Khổ thơ thứ nhất có năm dòng, khổ thơ thứ hai có bốn dòng.
Câu 2: Trong đoạn (2) và (3), thao tác lập luận chính mà tác giả sử dụng là gì?
Thao tác lập luận chính: giải thích.
Câu 3: Xác định câu chủ đề của đoạn (4).
Câu chủ đề đoạn (4): Tiếng thu là cả một bản hòa âm vừa mơ hồ vừa hiển hiện của bao nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hòa điệu với nỗi xôn xao huyền diệu của hồn thi nhân.
Câu 4: Từ đoạn (5) đến đoạn (7), tác giả tập trung phân tích những yếu tố hình thức nào của bài thơ?
Từ đoạn (5) đến đoạn (7), tác giả tập trung phân tích: âm điệu, bố cục, sự hài hòa của vần và nhịp.
Câu 5: Từ đoạn (8) đến đoạn (12), tác giả tập trung phân tích khía cạnh gì của bài thơ?
Từ đoạn (8) đến đoạn (12), tác giả tập trung phân tích: cấu trúc ngôn từ.
Câu 6: Xác định câu chủ đề của đoạn (13).
Câu chủ đề đoạn (13): Tôi cứ nghĩ, Lưu Trọng Lư chính là chú nai kia, bởi cái nghiêng tai ngơ ngác thi sĩ của nó.
Câu 1: Theo phân tích của tác giả, “tiếng thu” và “tiếng thơ” tương ứng với những bình diện nào trong bài thơ của Lưu Trọng Lư?
Theo phân tích của tác giả Chu Văn Sơn:
- “tiếng thu” là những âm thanh mơ hồ, tinh tế của đất trời và của tâm hồn con người;
- “tiếng thơ” chính là hình thức của bài thơ, là tổ chức ngôn từ để làm sống dậy “tiếng thu”, gây ấn tượng cho người đọc.
⇒ Hay nói cách khác: “Tiếng thu” – Bình diện cảm xúc, nội dung còn “Tiếng thơ” – Bình diện hình thức, nghệ thuật cấu tạo nên “Tiếng thu”
Câu 2: Trình tự của bài viết đi từ “tiếng thu” hay “tiếng thơ”? Theo tác giả, “tiếng thu” trong bài thơ của Lưu Trọng Lư là gì?
Bài viết đi từ “tiếng thơ” đến “tiếng thu”. Theo tác giả, “tiếng thu” trong bài thơ của Lưu Trọng Lư là: Tiếng thu là cả một bản hòa âm vừa mơ hồ vừa hiển hiện của bao nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hòa điệu với nỗi xôn xao huyền diệu của hồn thi nhân.
Câu 3: Đánh giá về tính hợp lí của cách tổ chức và triển khai ý tưởng trong bài viết.
Bài viết được tổ chức và triển khai hợp lí, nội dung từng phần rõ ràng, có sự so sánh, phát triển.
Người phê bình cần phải bám sát văn bản được phê bình, thể hiện sự đồng cảm thấu hiểu với nhà thơ, tích cực làm cầu nối giữa văn bản và độc giả, giúp độc giả cảm nhận được nét độc đáo của văn bản
Mở đầu gợi dẫn về “hồn thơ” và “hồn thu”, bàn về cái “động” cái “tĩnh” trong thơ cổ điển và Thơ mới, bàn về âm điệu của bài thơ, cách sử dụng từ ngữ (từ láy, từ tượng thanh), âm hưởng bài thơ và cấu trúc của bài thơ
Câu 4: Theo tác giả, sự khác biệt lớn nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của Thơ mới so với thơ cổ điển là gì? Nguyên nhân nào dẫn đến sự khác biệt ấy?
- Sự khác biệt lớn nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của Thơ mới so với thơ cổ điển: Thơ cổ điển miêu tả thiên nhiên tĩnh lặng, miên viễn. Thơ mới miêu tả thiên nhiên ở trạng thái xôn xao.
- Nguyên nhân: Con người cổ điển vốn xem tĩnh là gốc của động, là gốc của sự vận động trong tạo vật. Các nhà Thơ mới ít nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn chiêm nghiệm. Họ muốn dò la cái sự sống tiềm tàng chất chứa bên trong lòng tạo vật.
Câu 5: Khi phân tích ngôn từ trong bài thơ Tiếng thu , những thao tác gì được nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn thường xuyên sử dụng? Theo bạn, tại sao những thao tác ấy lại rất cần thiết trong việc cảm thụ giá trị thẩm mĩ của ngôn từ thơ?
- Các thao tác: phân tích, chứng minh, bình luận và so sánh.
- Mỗi thao tác có một vai trò riêng, góp phần trong việc cảm thụ giá trị thẩm mĩ của ngôn từ thơ: Phân tích giúp làm rõ từng vấn đề, chứng minh đưa ra dẫn chứng, bình luận giúp đưa ra đánh giá, nhận định còn so sánh giúp vấn đề trở nên sâu sắc hơn.
Câu 6: Từ gợi ý trong bài viết của Chu Văn Sơn, theo bạn, sức hấp dẫn của một bài thơ nằm ở những yếu tố nào?
Sự thống nhất, hài hoà giữa bình diện biểu đạt và bình diện được biểu đạt, giữa tổ chức ngôn từ và cái nhìn thế giới độc đáo.
+ Hình thức: Âm điệu, ngôn từ, âm hưởng, cấu trúc
+ Nội dung: Ý nghĩa cao đẹp về cuộc sống, sự sống hay các vẻ đẹp có giá trị thẩm mĩ cao
Qua tác phẩm được giới thiệu trong Bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca, hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) chia sẻ về điều làm bạn thấy thú vị, hấp dẫn khi đọc thơ.
Mẫu số 1
Trong kho tàng văn học của mỗi quốc gia, thơ ca là một thể loại vô cùng quan trọng. Bởi có lẽ, không thể loại nào có khả năng bộc lộ những cảm xúc chân thực, tài tình như thơ ca. Sức hấp dẫn của một bài thơ nằm ở ngôn từ, âm điệu của bài thơ. Hình ảnh trong thơ thường mang tính biểu tượng cao. Mặc dù được đặt trong một khuôn khổ nhất định nhưng thơ ca lại mở ra một thế giới tưởng tượng rộng lớn, không giới hạn. Có thể nói rằng, ngôn từ chính phương tiện giúp người thi sĩ kết nối với bạn đọc, cùng khám phá cánh cửa nghệ thuật và những tư tưởng cảm xúc được nhà thơ gửi gắm. Còn về âm điệu trong một bài thơ được tạo thành từ vần và nhịp. Mỗi âm điệu khác nhau cũng góp phần diễn tả tâm trạng khác nhau của nhà thơ. Chúng ta cảm nhận một bài thơ, không chỉ xét về nội dung mà còn phải chú ý đến nghệ thuật. Tất cả đều tạo nên vẻ đẹp của thơ ca.
Mẫu số 2
Thơ là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật được coi là xuất hiện gần như sớm nhất trong đời sống của loài người. Đã có hàng ngàn định nghĩa nhưng chưa có một định nghĩa nào có thể diễn đạt được một cách toàn diện và sâu sắc về thơ. Do đó người ta hiểu rằng định nghĩa về thơ là rất khó. Chỉ có thể thừa nhận rằng thơ là thể loại tiêu biểu cho sự tinh tuý của nghệ thuật ngôn từ. Khi đọc một bài thơ bất kì, ta thường bị hấp dẫn bởi hình thức, nghệ thuật, rồi mới đến nội dung của bài thơ. Thơ là một sản phẩm của sáng tạo in đậm dấu ấn chủ quan của người làm thơ, do đó, khi đọc thơ cần chú ý những đóng góp riêng của tác giả bài thơ về tứ thơ, cảm hứng, tư tưởng. Nhưng các yếu tố quan trọng này lại được thể hiện qua những rung động, xúc cảm được diễn đạt bằng hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ. Cho nên, chỉ có thể bằng cách liên tưởng, đối chiếu, so sánh giữa bài thơ đang đọc với các bài thơ khác của chính tác giả; giữa thơ của tác giả với nhiều nhà thơ cùng thời hoặc trước đó cùng chung đề tài. Thí dụ: Đọc bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu trong sự liên tưởng so sánh với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến, Cảm thu, Tiễn thu của Tản Đà hoặc so sánh giữa Đây mùa thu tới với Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Tỳ Bà của Bích Khê… Một bài thơ là một thế giới khép kín, muốn hiểu và làm chủ được thế giới ấy cần biết cách đi vào nó vào những thời điểm thích hợp. Đó là khi tâm hồn người đọc có nhu cầu chia sẻ, thưởng thức cái đẹp, hay đơn giản chỉ muốn thấu hiểu con người và cuộc đời.