Khái niệm | Nội dung |
Thơ và thơ trữ tình |
- Thơ là hình thức tổ chức ngôn từ đặc biệt, tuân theo một mô hình thi luật hoặc nhịp điệu nhất định. - Thơ trữ tình là loại tác phẩm có thơ thường có dung lượng nhỏ, thể hiện trực tiếp cảm xúc của nhân vật trữ tình |
Nhân vật trữ tình | - Là người trực tiếp bộc lộ những rung động và tình cảm trong bài thơ trước khung cảnh hoặc sự tình nào đó. |
Hình ảnh thơ | - Là các sự vật, hiện tượng, trạng thái đời sống được tạo ra một cách cụ thể, sống động bằng ngôn từ, khơi gợi cảm giác, cũng như gợi ra những ý nghĩa tinh thần nhất định với người đọc. |
Vần thơ, nhịp điệu, nhạc điệu, đối, thi luật, thể thơ |
- Vần thơ: sự cộng hưởng, hòa âm theo một số âm tiết trong hay cuối dòng thơ. - Nhịp điệu: Những điểm ngắt hay ngừng theo chu kì của nhất định trên văn bản do tác giả chủ động bố trí. - Nhạc điệu: Cách tổ chức các yếu tố âm thanh của ngôn từ để lời văn gợi ra cảm giác về âm nhạc. - Đối: Cách tổ chức lời văn thành 2 vế cân xứng, sóng đôi với nhau cả về ý và lời. - Thi luật: quy tắc tổ chức ngôn từ như cách gieo vần, ngắt nhịp, hòa thanh… - Thể thơ: Sự thống nhất giữa mô hình thi luật và loại hình nội dung của tác phẩm thơ. |
Bài thơ ngắn nhất mà bạn từng đọc là bài nào? Điều gì khiến nó được bạn nhớ tới?
Gợi ý: Bài thơ ngắn nhất từng đọc là: Phò giá về kinh của Trần Quang Khải.
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu.
* Thể thơ:
- Hai cư là một thể thơ truyền thống độc đáo của Nhật Bản (thi quốc), được hình thành từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XVII có những thành tựu nổi bật.
- Hình thức: thơ Hai cư thuộc loại ngắn nhất thế giới (cả bài chỉ 17 âm tiết, ngắt thành 3 đoạn 5-7-5). Nguyên bản tiếng Nhật chỉ có một câu thơ.
+ Dòng 1: Giới thiệu.
+ Dòng 2: Tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng 3.
+ Dòng 3: Ý thơ kết lại nhưng không rõ ràng, mở ra những suy ngẫm, cảm xúc cho người đọc ngân nga, lan tỏa.
* Nội dung:
- Phản ánh tâm hồn người Nhật - tâm hồn ưa thích hòa nhập với thiên nhiên, vì vậy nội dung thường hướng đên một phong cảnh, một vài sự vật cụ thể, một tứ thơ, một cảm xúc, một suy tư… của người viết.
- Tứ thơ: khơi gợi xúc cảm, suy tư trong một khoảnh khắc hiện tại (quy tắc sử dụng "quý ngữ)
a. Mát–chư–ô Ba–sô | b. Chi–ô | c. Cô–ba–y–a–si Ít–sa |
- Ông sinh năm 1644 mất năm 1694 là nhà thơ nổi tiếng của văn học Nhật. - Ông có công lớn trong việc hoàn thiện thơ hai - cư đưa nó trở thành thể thơ độc đáo nhất của Nhật Bản. |
- Là người đánh dấu sự hiện diện của tác giả nữ trong truyền thống thơ Hai-cư - Trước bà, thơ Hai – cư của tác giả nữ thường bị coi thường và quên lãng. - Bà đã trở thành một tiếng nói thơ ca độc đáo, được nhiều người yêu thích. |
- Là nhà thơ kiêm tu sĩ Phật giáo. - Ông còn là họa sĩ tài ba, nổi tiếng với những bức tranh có đề các bài thơ Hai cư do chính ông sáng tác. |
Câu 1: Hình dung về màu sắc, không khí của khung cảnh được gợi tả trong bài thơ.
Màu sắc: màu nâu (cành khô), màu đen (con quạ), màu vàng (nắng chiều thu)
Câu 2: Ấn tượng mà hình ảnh “hoa triêu nhan” và “dây gàu” gợi cho bạn là gì?
Những bông hoa triêu nhan màu tím đang quyện vào dây gàu bên giếng.
Câu 3: Khi nhắc đến “con ốc” và “núi Fu-ji”, người ta thường nghĩ đến những đặc điểm nào của chúng?
- Con ốc: nhỏ bé, chậm chạp
- Núi Fu-ji: hùng vĩ, tráng lệ
Câu 1: Hãy nhận diện hình ảnh trung tâm ở từng bài thơ hai-cư trên và cho biết đặc điểm chung của các hình ảnh ấy.
- Bài 1: con quạ
- Bài 2: hoa triêu nhan
- Bài 3: con ốc
⇒ Các hình ảnh trên đều thuộc về tự nhiên, là những sự vật nhỏ bé và bình thường.
Câu 2: Xác định mối quan hệ giữa hình ảnh trung tâm trong bài thơ của Ba-sô với các yếu tố thời gian và không gian.
- Hình ảnh trung tâm: Con quạ
- Không gian: trên cành khô (gợi sự tàn lụi, tiêu điều)
- Thời gian: chiều thu
⇒ Hình ảnh cánh quả đậu trên cành khô trong bài thơ thứ nhất gợi lên một không gian chiều thu vắng lặng, đơn sơ, nhẹ nhàng.
⇒ Sự tương phản giữa cái bé nhỏ, đơn độc (con quạ) với cái lớn lao, u huyền (chiều thu).
Câu 3: Bài thơ của Chi-ô được triển khai xoay quanh phát hiện nào? Theo bạn, vì sao phát hiện này lại dẫn dắt nhân vật trữ tình sang “xin nước nhà bên”?
Bài thơ của Chi-ô được triển khai xoay quanh phát hiện những bông hoa triều nhan quấn quanh sợi dây gầu bên thành giếng.
⇒ Trước cái đẹp, trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn thương nên bà chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện hữu.
Câu 4: Từ những đặc điểm thường được liên hệ khi hình dung về “con ốc” và núi “Fu-ji”, hãy nhận xét về tương quan giữa hai hình ảnh này.
- “Con ốc” gợi lên hình ảnh một con vật nhỏ bé, chậm chạp, sống thụ động.
- “Núi Fu-ji” là một ngọn núi nổi tiếng ở Nhật Bản, nó gợi lên sự hùng vĩ, tráng lệ của tự nhiên.
⇒ Hình ảnh thơ có sự tương phản (giữa hình ảnh nhỏ bé, cực tiểu và hình ảnh to lớn, kì vĩ, cực đại; giữa mục tiêu to lớn và khả năng thực hiện rất thấp, hành trình thực hiện có vẻ đầy hoang tưởng và vô vọng).
Câu 5: Khoảnh khắc được thể hiện trong bài thơ của Ba-sô có thể khơi gợi những cảm xúc gì ở người đọc?
Hình ảnh con quạ cô đơn đậu trên cành cây trơ trụi giữa một chiều thu mênh mông đã đưa người đọc vào cảnh giới u huyền và cô tịch, một thế giới hư không.
Câu 6: Từ bài thơ của Chi-ô, hãy bình luận về ý nghĩa triết lí trong cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên mà bài thơ gợi ra.
Triết lí trong cách ứng xử của con người với thiên nhiên: trân trọng, nâng niu và bảo vệ thiên nhiên; vạn vật đều cần được sống, được tôn trọng bởi tất cả đều cần nhau trong cuộc sống này. Không ai có thể vì quyền lợi của mình mà tàn hại người khác (F.Chiyo từng là một ni sư tu học theo Tịnh Độ Chân Tông, bà phát nguyện sẽ không bao giờ làm tổn hại đến bất cứ sinh linh nào).
Câu 7: Bạn cảm nhận như thế nào về hành trình “chậm rì” của con ốc trong bài thơ của Ít-sa?
Hành trình con ốc nhỏ trèo núi Fu-ji có vẻ hoang tưởng và vô vọng, nhưng bản thân nó không ý thức được điều đó mà chỉ trèo miệt mài, nhẫn nại, chậm rãi và bình thả. Nhìn vào con ốc, dường như đích đến và hành trình đều không có nghĩa, tâm thế bình thản, điềm nhiên của chủ thể mới quan trọng.
⇒ Hành trình “chậm rì” của con ốc trong bài thơ của Ít-sa cũng giống như hành trình chinh phục ước mơ, hoài bão của con người. Mặc dù chúng ta phải đứng trước “một ngọn núi to lớn” - những khó khăn, thử thách nhưng vẫn kiên trì, bền bỉ như con ốc sên thì sẽ sớm ngày lên được đến đỉnh núi - đạt được thành công. Ta có thể đi chậm hơn so với người khác nhưng điều quan trọng đó chính là ta không ngừng lại mà luôn nỗ lực, kiên trì đến cùng với ước mơ của mình.
Từ việc đọc ba bài thơ trên, hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày về điều bạn cảm thấy thú vị nhất ở thể thơ hai-cư.
Mẫu số 1
Thơ hai-cư là thể thơ truyền thống có vị trí rất quan trọng trong nền văn học Nhật Bản. Điều đặc biệt nhất là loại thơ này khiến tôi cảm thấy ấn tượng là bài thơ hai-cư rất ngắn, trong tiếng Nhật chỉ có ba dòng. Mỗi bài thơ đều có một tứ thơ nhất định, thường chỉ ghi lại một phong cảnh với vài sự vật cụ thể, trong một thời điểm nhất định để từ đó khơi gợi cảm xúc, suy tư nào đó. Ví dụ như trong các bài thơ của Ba-sô, hình ảnh trung tâm là con quạ; trong bài thơ của Chi-ô là hoa triền nhan, còn trong thơ của Ít-sa là con ốc. Bài thơ Hai-cư thường thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa con người và vạn vật nằm trong mối quan hệ khăng khít với một cái nhìn nhất thể hóa. Hình ảnh con quạ cô đơn đậu trên cành cây trơ trụi giữa một chiều thu mênh mông đã đưa người đọc vào cảnh giới u huyền và cô tịch, một thế giới hư không trong bài thơ của Ba-sô. Hay bài thơ của Chi-ô được triển khai xoay quanh phát hiện những bông hoa triều nhan quấn quanh sợi dây gầu bên thành giếng. Khi nhìn sự sống, cái đẹp nhà thơ muốn nâng niu, giữ gìn nên đã sang “xin nước nhà bên”. Và cả hành trình “chậm rì” của con ốc trong bài thơ của Ít-sa cũng giống như hành trình chinh phục ước mơ, hoài bão của con người. Có thể khẳng định, thơ Hai-cư là một thể thơ độc đáo của văn học Nhật Bản.
Mẫu số 2
Hai-kư, loài hoa đậm hương sắc nhất của vườn hoa thơ ca Xứ sở Phù Tang – từ giữa thế kỉ XX đã vượt ra biên giới đất nước và trở thành tài sản chung của nhân loại: hai-kư thế giới (world haiku). Sáng tác hai-kư trở thành phong trào rộng khắp từ Đông sang Tây, từ những cây bút nghiệp dư đến với thơ vì lòng yêu cho đến những nhà thơ lớn như Paul Eluard, J. L. Borges…và điều thú vị nhất ở thể thơ này chính là ở đề tài phản ánh. Đề tài thơ hai-kư ưa chuộng những sự vật nhỏ bé, đa dạng với những rung cảm chân thành, giản dị, hồn nhiên mang sắc thái rất Nhật Bản. Đề tài thơ haikư là thế giới tự nó trong khoảnh khắc mang tính gợi cảm. Hai-kư rất giống loại tranh thuỷ mặc mà người Nhật ưa chuộng. Nó là một nét vẽ bất chợt hướng về thiên nhiên bốn mùa, phản ảnh vẻ đẹp và cảm xúc nội tâm của con người, thường được gọi chung là quý đề (kidai). Hai-kư là loại thơ có vẻ không trọng lời bên ngoài mà hướng vào cái bản chất bên trong. Ngôn ngữ dường như tự nhiên, không dụng công theo tinh thần “trực chỉ nhân tâm”. Ngôn ngữ hai-kư là loại tín hiệu ngôn ngữ phổ biến trong đời sống xung quanh được lọc qua những tâm hồn tinh khiết nên mang tính tín hiệu hằn sâu có sẵn trong tâm thức. Thơ hai-kư ít dùng tính từ, trạng từ với sự can thiệp của cái tôi chủ quan nhằm cụ thể hoá cảnh vật, mà nó chỉ dùng những từ mang tính chấm phá mà khái quát, giản dị mà hàm súc nhờ mối quan hệ giữa các từ như một dòng trôi chảy lửng lờ.