Chữ bầu lên nhà thơ

A. Tìm hiểu chung

I. Tác giả

1. Tiểu sử

- Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, (10/09/1929 - 21/04/2008), là một nhà thơ Việt Nam

- Ông quê ở Bắc Giang nhưng sinh ra tại Yên Bái

- Ông là một trong những nhân vật trụ cột của phong trào nhân văn giai phẩm.

- Năm 2007, cùng với ba nhà thơ khác của Phong trào Nhân văn - giai phẩm là Trần Dần, Phùng Quán và Hoàng Cầm, ông được nhận Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật.

- Tác phẩm chính: Bài thơ trên ghế đá (thơ, in chung với Vĩnh Mai, 1958), Cửa hàng Lê Đạt (trường ca, 1959), 36 bài thơ tình (thơ,in chung với Dương Tường, 1990), Bóng chữ (thơ, 1994), 95 bài thơ, Hèn đại nhân (tập truyện, 1994), Ngó lời (thơ, 1997), 241 bài thơ, Mi là người bình thường (tập truyện, 2007), U75 Từ tình (thơ và đoản ngôn, 2007), 88 bài

- Ông mất ngày 21/04/2008 tại Hà Nội.

2. Phong cách sáng tác

Về thơ, Lê Đạt tự nhận mình là phu chữ, vì thơ ông viết rất kỹ tính, cẩn thận từng câu chữ, chọn lọc, suy nghĩ và dằn vặt rất nhiều.

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ

- Văn bản được in lần đầu trên báo Văn nghệ, số 34, năm 1994

- Tiểu luận thể hiện rõ quan niệm của Lê Đạt về nghề thơ, giúp soi sáng phần nào hướng tìm tòi độc đáo trong thơ ông.

2. Bố cục

- Đoạn 1: Những ý kiến được nhà thơ phát biểu ở các diễn đàn khác nhau, xoay quanh đặc thù của lao động thơ, của ngôn từ trong thơ.

- Đoạn 2: Đối thoại với những quan niệm mà tác giả không đồng tình trên vấn đề lao động thơ và nhận diện tầm vóc nhà thơ qua cách nhà thơ tìm phiếu ủng hộ từ “cử chi chữ”

- Đoạn 3: Luận về sự thống nhất mà khác biệt giữa các con đường thơ và thước đo một nhà thơ chân chính.

3. Nhan đề

- “Chữ bầu lên nhà thơ”: chữ là yếu tố quyết định tạo nên tư cách nhà thơ.

- Nhan đề hàm chứa chủ đề bài viết: lao động chữ nghĩa trong hoạt động sáng tạo thơ ca và tính chất, ý nghĩa khác thường của “chữ” trong thơ.

- Nhan đề là phát biểu của một nhà thơ Pháp, gốc Do Thái Ét-mông Gia-bét. Như vậy, có thể sử dụng ý kiến của người khác làm nhan đề nhưng phải dẫn nguồn rõ ràng.

B. Soạn bài Chữ bầu lên nhà thơ

I. Trước khi đọc

Câu 1: Trong hình dung của bạn, nhà thơ phải là người như thế nào? Bạn có cho rằng việc làm thơ gắn liền với những phút cao hứng, “bốc đồng”?

Nhà thơ là người có tâm hồn lãng mạn, yêu thích cái đẹp. Việc làm thơ đôi khi có những phút cao hứng, “bốc đồng” vì thơ quan trọng nhất là cảm xúc, nhưng không phải luôn như vậy.

Câu 2: Bạn nhớ hoặc thích định nghĩa nào về thơ, nhà thơ hay công việc làm thơ?

Chế Lan Viên từng viết trong lời tựa tập Điêu tàn: “Làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xáo trộn dĩ vãng, nó ôm trùm tương lai. Người ta không thể hiểu được vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý”...

II. Trả lời các thẻ trong văn bản đọc

Câu 1: Phải chăng tác giả đã nhầm khi viết “ý tại ngôn tại”?

  • “Ý tại ngôn tại: Ý nằm gọn trong lời đã nói hoặc viết ra.
  • Các tác phẩm văn xuôi có những câu văn ngắn, dài khác nhau nên dễ dàng diễn đạt ý mà tác giả muốn đề cập đến. Bởi vậy, tác giả không nhầm khi viết “ý tại ngôn tại”.

Câu 2: “Nghĩ tiêu dùng” và “nghĩa tự vị” - hai cụm từ này có diễn đạt cùng một ý không?

“Nghĩa tiêu dùng”: Nghĩa được sử dụng hằng ngày, trong cuộc sống; Nghĩa tự vị: Nghĩa được ghi chép trong từ điển, cũng chính là nghĩa được hiểu trong cuộc sống hằng ngày.

=> Hai cụm từ này diễn đạt cùng một ý.

Câu 3: Tác giả “rất ghét” hay “không mê” những gì? Ngược lại, ông “ưa” đối tượng nào? Bạn có nghĩa mình đã hiểu đúng điều tác giả muốn nói?

- Tác giả “rất ghét” cái định kiến quái gở: các nhà thơ Việt Nam thường chín sớm, nên cũng lụi tàn sớm; “không mê” những nhà thơ thần đồng.

- Ngược lại, ông “ưa” những nhà thơ một nắng hai sương, lầm lũi lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ.

Câu 4: “Không có chức nhà thơ suốt đời”, vậy lúc nào một “nhà thơ” không còn là nhà thơ nữa?

Một “nhà thơ” không còn là nhà thơ nữa khi họ không còn miệt mài, cần cù lao động chữ.

III. Trả lời câu hỏi

Câu 1: Vấn đề chính được bàn luận trong văn bản này là gì?

Vai trò ngôn ngữ với nhà thơ, quan niệm về nghề sáng tác thơ của tác giả.

Câu 2: Hãy tìm trong văn bản một câu có thể nêu bật được ý cốt lõi trong quan niệm về thơ của tác giả.

“Nhưng, dẫu có theo con đường nào, một nhà thơ cũng phải cúc cung tận tụy đem hết tâm trí dùi mài và lao động chữ, biến ngôn ngữ công cộng thành ngôn ngữ đặc sản độc nhất làm phong phú cho tiếng mẹ như một lão bộc trung thành của ngôn ngữ.”

Câu 3: Ở phần 2 của văn bản, tác giả đã tranh luận với hai quan niệm khá phổ biến:

- Thơ gắn liền với những cảm xúc bột phát, “bốc đồng”, làm thơ không cần cố gắng.

- Thơ là vấn đề của những năng khiếu đặc biệt, xa lạ với lao động lầm lũi và nỗ lực trau dồi học vấn.

Những lí lẽ và bằng chứng mà tác giả nêu lên đã thực sự thuyết phục chưa? Hãy nói rõ ý kiến của bạn.

Gợi ý:

Tác giả đã đưa là lí lẽ rõ ràng, sau đó lấy dẫn chứng từ một số nhà thơ nổi tiếng. Những lí lẽ và bằng chứng mà tác giả nêu lên đã thực sự thuyết phục.

Ví dụ:

+ Tôn – xtoi đã chữa đi chữa lại nhiều lần cuốn tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”

+ Phlo – be cân nhắc chữ trên cân tiểu li như người thầy thuốc

Câu 4: Tác giả không trực tiếp định nghĩa khái niệm chữ. Dựa vào “ý tại ngôn ngoại” của văn bản, bạn hãy thử thực hiện công việc này.

Chữ là cái vỏ âm thanh, biểu đạt quan niệm của người viết; là ngôn từ được sử dụng, tổ chức một cách nghệ thuật.

Câu 5: Bạn có ý kiến gì về luận điểm: “Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tự vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ”? Nếu tán đồng với tác giả Lê Đạt, hãy đưa ra một ví dụ để minh họa.

- Ý kiến: Đồng tình. Bởi “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tự vị là lớp nghĩa chung, được dùng trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng hiểu được. Nhà thơ phải tạo ra con chữ riêng cho bản thân.

- Ví dụ: Ví dụ như “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử gợi ra cảm giác mùa xuân đang đạt đến độ căng mọng, đẹp đẽ nhất.

Câu 6: Bài viết của Lê Đạt đã giúp bạn hiểu thêm gì về hoạt động sáng tạo thơ ca?

- Nhà thơ phải dùi mài, lao động chữ, biến ngôn ngữ công cộng thành ngôn ngữ đặc sản độc nhất làm phong phú cho tiếng mẹ đẻ.

=> Trong quá trình sáng tạo chữ, nhà thơ sẽ có những phát bất chợt, những cảm hứng ngắn ngủi hoặc phải làm việc chăm chỉ trên những trang giấy để tạo ra những câu thơ hay và ý nghĩa. Một nhà thơ có thành công tạo ra một bài thơ xuất sắc hay không là phải nhờ vào ngôn ngữ, ý nghĩa thơ.

IV. Kết nối đọc - viết

Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) nêu suy nghĩ về một nhận định mà bạn thấy tâm đắc trong văn bản Chữ bầu lên nhà thơ của Lê Đạt.

Mẫu số 1

Trong bài thơ “Chữ bầu lên nhà thơ” của Lê Đạt, tôi cảm thấy tâm đắc nhất với quan điểm: “ Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tự vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ”. Trước tiên, có thể hiểu “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tự vị là lớp nghĩa chung, được dùng trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng hiểu được. Quan điểm của Lê Đạt muốn khẳng định rằng nhà thơ làm chữ cần phải tạo ra con chữ riêng, có nghĩa là tạo ra được ngôn ngữ nghệ thuật riêng. Ở đó, diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ được đặt trong mối tương quan hữu cơ với câu, bài thơ. Trong bài thơ Mùa xuân chín, Hàn Mặc Tử đã khắc họa hình ảnh làng quê trong buổi sáng mùa xuân với vẻ căng tròn, đẹp đẽ nhất. Nhà thơ đã lựa chọn và kết hợp từ láy với danh từ, tính từ như lấm tấm vàng, sột soạt gió, nắng chang chang. Từ đó, chúng ta thấy được mọi thứ đều đạt đến độ hoàn hảo, sắc xuân lan tỏa khắp mọi nơi, sức sống mãnh liệt. Như vậy, nhận định trên của Lê Đạt là hoàn toàn đúng đắn, rất giàu giá trị.

Mẫu số 2

Tác giả Lê Đạt đã đưa ra nhận định hay và thú vị là Chữ bầu lên nhà thơ, để làm nổi bật tầm quan trọng của chữ đối với các nhà thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Chữ không chỉ hiểu đơn giản là vỏ âm thanh mà quan trọng đó chính là ngôn ngữ được sử dụng, tổ chức một cách nghệ thuật. Chữ bầu lên nhà thơ là khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ; ngôn ngữ là yếu tố không thể thiếu trong văn học; nó khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt; tạo lập và tôn vinh vị thế nhà thơ. Khi nhà thơ cần mẫn với chữ thì sẽ có sự lựa chọn phù hợp nhất để diễn đạt ý cần nói, để tiếng lòng của mình được vang lên, được hữu hình hóa thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu. Nhà thơ Đỗ Phủ hay còn được người đời gọi là “thi thánh” với bài thơ Thu hứng đã sử dụng những câu chữ mang tính ước lệ, lời thơ buồn với những âm vang và nhịp điệu đã đưa người đọc đến với thế giới cảm xúc tâm hồn của nhà thơ. Quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy sự khó khăn, vất vả, nhà thơ phải thổi hồn vào tác phẩm thông qua ngôn ngữ thơ ca, phải dựa vào chữ để tạo ra những tác phẩm đặc sắc. Điều đó cũng cho ta thấy Chữ bầu lên nhà thơ là một nhận định đúng.

  • 3.231 lượt xem
Sắp xếp theo