Ôn tập học kì I

I. Hệ thống hóa kiến thức đã học

Câu 1: Lập bảng tổng hợp hay vẽ sơ đồ tư duy về danh mục các loại, thể loại và nhan đề các văn bản đọc trong Ngữ Văn 10, tập một.

STT

Loại/Thể loại

Nhan đề

1

Thần thoại

Truyện về các vị thần sáng tạo thế giới

2

Truyền kì

Tản Viên từ Phán sự lục

3

Truyện ngắn

Chữ người tử tù

4

Thần thoại

Tê-dê

5

Thơ Hai-cư

Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

6

Thơ Đường luật

Thu hứng (Cảm xúc mùa thu)

7

Thơ mới

Mùa xuân chín

8

Phê bình văn học

Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư

9

Thơ

Cánh đồng

10

Nghị luận

Hiền tài là nguyên khí quốc gia

11

Nghị luận

Yêu và đồng cảm

12

Nghị luận

Chữ bầu lên nhà thơ

13

Nghị luận

Thế giới mạng và tôi

14

Sử thi

Héc-to từ biệt Ăng-đrô- mác

15

Sử thi

Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời

16

Sử thi

Ra-ma buộc tội

17

Chèo

Xúy Vân giả dại

18

Tuồng

Huyện đường

19

Múa rối nước

Múa rối nước- hiện đại soi bóng tiền nhân

20

Tuồng

Hồn thiêng đưa đường

Câu 2: Trình bày khái quát những kiến thức thu nhận được về đặc điểm từng loại, thể loại văn bản đọc đã học trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập một theo bảng gợi ý sau:

STT

Loại, thể loại

Đặc điểm (nội dung và hình thức)

1

Thần thoại

 

- Thần thoại là thể loại truyện kể ra đời sớm nhất về thế giới thần linh, thể hiện quan niệm của người xưa về vũ trụ và nhân sinh của loài người.

- Thần thoại thường có cốt truyện đơn giản: cốt truyện đơn tuyến, tập trung vào một nhân vật hoặc một tổ hợp nhiều cốt truyện đơn.

2

Truyện truyền kì

 

- Về nội dung: Ghi chép tùy hứng những chuyện kì lạ…

- Về hình thức: Sử dụng nhiều yếu tố kì ảo; Xây dựng các nhân vật có hành trạng khác thường…

3

Thơ Hai-cư

 

- Về nội dung: Rung cảm của con người trước thiên nhiên.

- Về hình thức: ngắn gọn, thiên về khơi gợi…

4

Thơ Đường Luật

 

- Về nội dung: Đa dạng.

- Về hình thức: Tuân theo quy tắc về số từ, số câu, niêm - luật…

5

Thơ mới

 

- Về nội dung: Bộc lộ những tình cảm, cảm xúc cá nhân cũng như ý thức cá tính của con người với nhiều biểu hiện đa dạng, độc đáo

- Về hình thức: Thể thơ tự do, Không phải tuân theo quy tắc về niêm - luật…

7

Sử thi

- Về nội dung: Xoay quanh những biến cố trọng đại liên quan đến vận mệnh của toàn thể cộng đồng như chiến tranh hay công cuộc chinh phục thiên nhiên để ổn định và mở rộng địa bàn cư trú.

- Về hình thức: Dung lượng đồ sộ; nhân vật sử thi thường là người anh hùng đại diện cho sức mạnh, phẩm chất lí tưởng và khát vọng chung của cộng đồng; thời gian sử thi là quá khứ; không gian kì vĩ, rộng lớn…

8

Chèo

 

- Về nội dung: Những vấn đề trong cuộc sống đời thường.

- Nghệ thuật chèo mang tính tổng hợp, có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa nói, hát, múa với sự hỗ trợ của các đạo cụ, nhạc khí dân tộc độc đáo, trên cơ sở một tích trò (còn gọi là tích truyện, chèo bán hay đơn giản là tích có sẵn)

9

Tuồng

- Những vấn đề trong cuộc sống đời thường.

- Nghệ thuật tuồng: mang tính tổng hợp, phối hợp cả văn học, ca nhạc và vũ đạo. Tích tuồng dân gian giàu yếu tố hài, hướng tới châm biếm các thói hư tật xấu hay đả kích một số hạng người nhất định trong xã hội. Một tích tuồng thường có nhiều dị bản (do được bổ sung, nắn chỉnh thường xuyên trong quá trình biểu diễn, lưu truyền)

Câu 3: Tổng hợp các nội dung thực hành Tiếng Việt đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập một theo bảng gợi ý sau:

STT

Nội dung thực hành

Ý nghĩa của hoạt động thực hành

1

Sử dụng từ Hán Việt

Giúp nhận biết được từ Hán Việt

2

Lỗi dùng từ, lỗi về trật tự từ và cách sửa

 

Nhận biết và sửa được lỗi sai.

3

Lỗi về liên kết và mạch lạc trong đoạn văn, văn bản: Dấu hiệu nhận biết và cách chỉnh sửa

Nhận biết được lỗi sai, biết cách sửa

4

Sử dụng trích dẫn, cước chú và cách đánh dấu phần bị tỉnh lược trong văn bản

Giúp học sinh hiểu ý nghĩa của việc trích dẫn, cước chú và cách đánh dấu phần bị tỉnh lược trong văn bản.

Câu 4: Liệt kê các kiểu bài viết đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập một và nêu vắn tắt yêu cầu của từng kiểu bài theo bảng gợi ý sau:

STT

Kiểu bài viết

Yêu cầu của kiểu bài viết

1

Văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện

Giới thiệu khái quát về tác phẩm.

Tóm tắt nội dung của tác phẩm.

Phân tích cụ thể, rõ ràng về tác phẩm truyện.

Đánh giá về tác phẩm truyện.

2

Văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ

Giới thiệu khái quát về bài thơ.

Phân tích nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ.

Đánh giá giá trị của bài thơ.

3

Bài luận thuyết phục

 

Đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng để thuyết phục được người đọc, người nghe.

4

Báo cáo nghiên cứu

Nêu được đề tài và vấn đề nghiên cứu được đặt ra trong báo cáo

Trình bày được kết quả nghiên cứu thông qua hệ thống các luận điểm sáng rõ, thông tin xác thực.

Khai thác được các nguồn tham khảo chính xác, đáng tin cậy.

Câu 5: Nhớ lại các nội dung của hoạt động nói và nghe đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập một và cho biết:

- Nội dung nói và nghe nào đã từng quen ở cấp học Trung học cơ sở? Yêu cầu nâng cao đối với các nội dung nói và nghe đó là gì?

+ Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ

+ Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện

+ Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau

- Nội dung nói và nghe nào lần đầu được thực hiện với sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập một? Nêu những thách thức của nội dung nói và nghe đó.

+ Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu một vấn đề

+ Lắng nghe và phản hồi về một bài thuyết trình kết quả nghiên cứu

II. Luyện tập và vận dụng

1. ĐỌC

* TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Văn bản thuộc loại nào?

A. Văn bản văn học

B. Văn bản thông tin

C. Văn bản nghị luận

D. Văn bản đa phương thức

Câu 2: Câu nào trong bài viết khái quát đầy đủ đặc trưng của cảnh vật được gọi lên ở bài thơ Thiên Trường vẫn vọng?

A. Bài thơ tả một cành thôn quê như muôn vàn cảnh thôn quê lúc chiều xuống.

B. Cảnh giản đơn, đạm bạc, quê mùa mà sức chứa đựng lớn lao, kỉ

C. Không thể nào khác là một cảnh thanh bình, yên ả, phơn phớt chút tươi vui hiền lành, thầm lặng phát ra từ một cuộc sống có phản âm no, hạnh phúc,

D. Chiều đã tà nhưng xóm thôn chưa đi vào hoàng hôn hắn.

Câu 3: Bài viết được triển khai theo trình tự nào?

A. Phân tích lần lượt từng câu thơ một.

B. Giảng nghĩa từ ngữ trước, sau đó đi vào phân tích ý nghĩa các câu thơ và bài thơ,

C. Phân tích văn bản thơ, tiếp đó mở rộng liên hệ tới hoàn cảnh sáng tác và k thể của tác giả bài thơ,

D. Nêu cảm nhận chung về bài thơ, phân tích bài thơ, đánh giá ý nghĩa của bài thơ

* TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1:

- Ở đây lại là trong tầm mắt và thẩm mỹ, điệu xúc động của một ông vua thi sĩ. Ông vua ấy - Trần Nhân Tông Đúng là tự thân lăn lộn trong dân, cùng nhân dân vào sinh ra tử gian khổ biết chừng nào mới đánh đuổi được quân giặc, giành lại được cho đất nước, cho dân cảnh sống thănh bình này.

Câu 2:

- Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng khoan hòa, nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông thắng lợi vẻ vang (1285, 1288).

Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đạo Phật, cuối đời, vào năm 1298, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần.

Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ta được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Bài thơ gợi được cái hồn, cái cốt của làng quê Việt Nam. Bài thơ phảng phất chất thiền thể hiện tâm hồn sâu lắng, thanh cao của bậc vua hiền tài nhân ái Trần Nhân Tông.

Câu 3:

- Ngôn ngữ thơ: sử dụng từ Hán Việt, giải nghĩa các từ ngữ -> tư tưởng nội dung

- Không gian và thời gian trữ tình trong thơ.

2. VIẾT

Mẫu số 1 - Đề 1 (Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học mà bạn yêu thích)

Vào những năm 1932 - 1945, phong trào Thơ mới đã thổi vào nền văn học nước nhà một luồng gió mới lạ, đánh thức cả một nền thơ đang “triền miên trong cõi chết”. Một trong số những nhà thơ tiên phong và góp phần làm nên chiến thắng không nhỏ trong phong trào Thơ mới phải kể đến Lưu Trọng Lư. Năm 1939, ông cho ra đời tập thơ đầu tay “Tiếng thu” gây nhiều tiếng vang nhất bởi chất thơ cất lên từ những kỉ niệm thời thơ ấu, về quê hương, dòng sông, cánh diều,... Trong đó phải kể đến “Nắng mới”, một trong những thi phẩm thành công, nổi bật của phong trào thơ mới.

Bài thơ là hồi ức của tác giả về ngươi mẹ thân yêu của mình, một đề tài không hề mới lạ nhưng vẫn lay động tâm hồn người đọc bởi những xúc cảm chân thành kết hợp với nghệ thuật thơ đặc sắc.

Với tình yêu cái đẹp và tâm hồn nhạy cảm, Lưu Trọng Lư luôn đi tìm kiếm và chắt chiu cái đẹp, từ những vẻ đẹp thanh cao đến bình dị, đời thường. Thiên nhiên trong thơ ông tất thảy đều thi vị và thật nên thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương trong vẻ đẹp của nắng mới:

“Mỗi lần nắng mới hắt bên song

Xao xác gà trưa gáy não nùng”

Nắng ở đây không tươi tắn như nắng trong thơ của Hàn Mặc Tử: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. “Nắng mới” ở đây là sự giao thoa giữa ấm và lạnh, nắng và mưa, sáng và tối, khô và ẩm, cũ và mới, dĩ vãng và hiện tại. Lúc này không gian đã chuyển màu sang thời gian, rồi ngược lại thời gian lóng lánh: hắt bên song – biên giới giữa trong nhà và ngoài sân, giữa riêng ta và vũ trụ. Cộng hưởng với ánh nắng soi rọi tiềm thức ấy là tiếng gà trưa xao xác, não nùng. Hai từ láy trong cùng một câu thơ khiến giọng thơ như trầm hẳn xuống, trĩu nặng.

Nhà thơ chập chờn nhớ sống lại kí ức tươi sáng về người mẹ trong những ngày nắng mới:

“Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng

Chập chờn sống lại những ngày không”.

Nhớ về thời “dĩ vàng” là nhớ về quá khứ, dù tươi đẹp đến mấy nhưng cũng đã mãi mãi lụi tàn và không thể quay trở lại. Những “ngày không”, có lẽ là những ngày ấu thơ khi tác giả còn nhỏ, được sống cùng mẹ và chưa phải lo nghĩ, vướng bận điều gì.

Từ nỗi nhớ về ngày thơ bé, hình ảnh người mẹ thân yêu, giản dị hiện lên ngày càng rõ nét:

“Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời

Lúc người còn sống, tôi lên mười

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội

Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.”

Người mẹ đã không còn nữa, tất cả những gì còn lại chỉ là kỉ niệm nhạt nhòa đọng lại trong tâm trí đứa trẻ lên mười. Cũng là “nắng mới”, nhưng trong quá khứ, nắng không “hắt bên song” mà tràn đầy sức sống, niềm vui “reo ngoài nội” vì ánh nắng đó đến vào những ngày còn mẹ. Từ “reo” như một nốt nhạc bay bổng, lảnh lót, tươi vui giữa một bản nhạc trầm lắng, da diết có phần não nùng. Câu thơ như bừng lên sức sống vui tươi, khác lạ. Trong khổ thơ, hình ảnh mẹ gián tiếp xuất hiện thấp thoáng sau màu ảo đỏ, trước giậu phơi. Có lẽ đó chính là hình ảnh thân thuộc nhất đọng lại trong tâm trí người con.

Hình ảnh người mẹ hiền lương - người gắn bó sâu nặng nhất với tác giả, đã chịu biết bao khổ cực trong cuộc sống hiện lên trong những dòng thơ nhẹ nhàng mà đầy cảm xúc. Chi tiết miêu tả ngoại hình của mẹ chỉ xuất hiện trong hai dòng thơ cuối, nhưng đó là hình ảnh đẹp nhất:

“Nét cười đen nhánh sau tay áo

Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa”

Buổi trưa là thời gian ngưng đọng nhất. Lưu Trọng Lư đã đi rất xa về quá khứ để nhớ tỉ mỉ cảnh người mẹ đưa áo ra dậu phơi mỗi khi có nắng mới. Cái nắng mới của hoài niệm này nao nức, tươi vui bởi gắn với một cậu bé lên mười, với một người mẹ trẻ chăm chút, hiền dịu, nụ cười tỏa sáng trên gương mặt. Không gian màu đỏ của nắng và áo trở thành một điểm son trong nỗi nhớ về tuổi thơ của tác giả. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “nét cười đen nhánh” để lại dư vị, cảm xúc vấn vương, lan tỏa trong lòng người đọc. Không phải “nụ cười” hay “miệng cười” mà chỉ là “nét cười” - sự kín đáo, nhẹ nhàng và cũng thật nhanh, như chỉ lướt qua chứ chưa kịp đọng lại trên khuôn mặt mẹ. Hình ảnh ấy cũng gợi nhớ đến hình ảnh những cô hàng xén trong thơ Hoàng Cầm:

“Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng”

(Bên kia sông Đuống)

Bài thơ không chỉ hấp dẫn độc giả bởi tình cảm tha thiết, chân thành và nỗi nhớ sâu sắc của người con hướng về người mẹ tần tảo sớm hôm mà còn bởi nghệ thuật, tài năng ngòi bút Lưu Trọng Lư. Nghệ thuật đảo ngữ được nhà thơ sử dụng góp phần làm tăng khả năng biểu đạt của ngôn ngữ thơ. Giọng điệu thơ giãi bày, bộc bạch những tâm tình sâu kín, chủ thể “tôi” trực tiếp thể hiện những cảm xúc chân thực, lay động lòng người. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, gần gũi với bạn đọc,...

Đọc bài thơ, ta càng thấm thía hơn về tình mẫu tử - thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý trong mỗi con người. Bên cạnh những dòng thơ chan chứa tình cảm, cảm xúc về mẹ - người phụ nữ cả đời tần tảo hi sinh của nhà thơ, người đọc còn cảm nhận được sự tinh tế, tâm hồn nhạy cảm của Lưu Trong Lư trước thiên nhiên, đất trời. Có lẽ bởi vì vậy mà nhiều năm trôi qua nhưng sức sống của bài thơ vẫn tràn đầy, để lại những ấn tượng nhẹ nhàng mà đậm sâu trong lòng độc giả.

Mẫu số 2 - Đề 3 (Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hoặc quan niệm mà bạn cho là không phù hợp với chuẩn mực chung được cộng đồng tạo dựng)

Theo báo cáo thống kê vào tháng 12 năm 2022, ở Việt Nam có khoảng 7 triệu người khuyết tật, đó là con số không hề nhỏ. Cộng đồng người khuyết tật trên thực tế vẫn là những thành viên có đóng góp, có giá trị riêng và những cống hiến cho xã hội. Tuy nhiên, sự kì thị, phân biệt đối xử mà họ gặp phải lại rất phổ biến. Đây là thói quen của rất nhiều cá nhân, tổ chức cần phải sớm được loại bỏ.

Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể, hay bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho đời sống sinh hoạt, học tập, lao động gặp khó khăn. Vì những khác biệt đó mà họ thường xuyên phải chịu sự kì thị. Kì thị là cách phản ứng tiêu cực của cá nhân hay xã hội đối, sự loại trừ, cô lập những người có đặc điểm không được phần đông trong xã hội chấp nhận. Sự kì thị được biểu hiện không chỉ ở hành động mà từ trong suy nghĩ, quan điểm của cá nhân hay tổ chức. Kì thị người khuyết tật là sự phân biệt đối xử nhằm tách biệt hay hạn chế cơ hội giao lưu, tiếp xúc bình đẳng vốn có của người khuyết tật với cộng đồng.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thái độ, sự kì thị với người khuyết tật. Trong đó phải kể đến những quan niệm sai lệch mang yếu tố mê tín, dị đoan: người khuyết tật bị xem là sự trừng phạt cho tội lỗi mà người nhà họ kiếp trước đã phạm phải. Nhiều người có nhận thức sai lệch, thiếu đúng đắn về người khuyết tật, chẳng hạn cho rằng người khuyết tật là dị biệt, là những người không có học thức, vô tích sự,… Đồng thời, các công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức về người khuyết tật và các quyền lợi của họ vẫn chưa thực sự sâu rộng và đạt hiệu quả. Ngoài ra, nguyên nhân cũng bắt nguồn từ chính những người khuyết tật, có những người đã lợi dụng lòng tốt của cộng đồng, xã hội để chuộc lợi, nhận hỗ trợ mà không cần bỏ ra sức lao động.

Dù bắt nguồn từ nguyên nhân nào, việc kì thị người khuyết tật cũng là hành vi đáng lên án, cần phải loại bỏ bởi nó đem lại rất nhiều hệ lụy. Đó chính là nguyên nhân dẫn đén việc người khuyết tật không thể hòa nhập vào các hoạt động chung của cộng đồng, làm hạn chế cơ hội của họ, bao gồm cả cơ hội sống, học tập, lao động, giải trí và cả cơ hội tình yêu, hạnh phúc, hôn nhân - gia đình,… Trong thời kì dịch bệnh Covid-19, một số địa phương chậm chễ trong công tác tiêm vacine cho đối tượng người khuyết tật, cho đến khi đại đa số mọi người đã được tiêm, chính phủ ra yêu cầu rà soát từng nhà, khi đó mới đến lượt họ, nhiều cá nhân sau khi bị “bỏ quên” đã có thái độ tiêu cực, bất cần, từ chối hợp tác và nhận vacine vì cảm thấy bất bình đẳng. Một dẫn chứng khác: trong trường học không tiếp nhận, không đào tạo hoặc không có dụng cụ và phương pháp giảng dạy phù hợp với học sinh khuyết tật,… Điều này dẫn đến kết quả tất yếu là họ không thể tiếp cận và tham gia vào giáo dục hay theo cùng cách mà học sinh không khuyết tật được hưởng; từ đó học sinh khuyết tật đã bị mất cơ hội học tập để chuẩn bị cho tương lai sau này. Việc kì thị này đã ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của người khuyết tật, đặc biệt về mặt tinh thần, khiến họ ngày càng mặc cảm, tự ti thậm chí tìm đến cái chết để giải thoát.

Vì lẽ đó, chúng ta cần phải học cách từ bỏ thói quen kì thị người khuyết tật. Làm được điều đó sẽ giúp cho những người kém may mắn ấy có thể tự tin, mạnh mẽ hơn, sẵn sàng để đón nhận tình cảm, sự yêu thương từ cộng đồng, có động lực để cố gắng vượt lên nghịch cảnh, có thể lo cho cuộc sống của mình và đóng góp một phần công sức cho xã hội. Khi chúng ta loại bỏ được sự kì thị ấy, bản thân cũng sẽ có cái nhìn cởi mở, tích cực hơn, biết yêu đời, yêu người, dần trở nên thanh thản, hạnh phúc. Nhiều cá nhân cùng thay đổi theo hướng tích cực, xã hội sẽ dần xóa bỏ sự kì thị với người khuyết tật, cuộc sống cũng dần trở nên bình đẳng, tốt đẹp hơn.

Để từ bỏ thói quen không tốt này, chúng ta có thể bắt đầu từ những hành động rất đơn giản, hãy chủ động tìm hiểu, tiếp nhận thông tin về cộng đồng người khuyết tật, nhìn vào những đóng góp của họ cũng như những khó khăn, sự kì thị, phân biệt đối xử mà họ đã phải trải qua. Khi đó, chúng ta sẽ dần thay đổi tư duy, cách nhìn nhận của bản thân. Người khuyết tật cũng có những hiệp hội, những câu lạc bộ rất lớn mà ở đó, họ giúp đỡ, nương tựa vào nhau, cùng nhau tạo nên những giá trị tốt đẹp cho bản thân và cộng đồng. Chúng ta cũng có thể tham gia vào các câu lạc bộ, hội nhóm hỗ trợ người khuyết tật để hiểu và cảm nhận rõ hơn về cuộc sống của họ, giúp họ tăng cường cơ hội giao tiếp xã hội, nâng cao hiểu biết về quyền của người khuyết tật,… Mỗi cá nhân bắt đầu thay đổi, dần dần xã hội sẽ thay đổi.

Dù có những khiếm khuyết nhưng những người khuyết tật vẫn là con người với đầy đủ quyền được sống, được hạnh phúc, họ cũng không ngừng nỗ lực vì cuộc sống và đóng góp cho xã hội. Chúng ta sinh ra được may mắn hơn, không nên vì thế mà dành cho họ những sự đối xử không tốt. Kì thị người khuyết tật hay cả trong suy nghĩ và hành động đều là hành vi cần phải loại bỏ, hãy cùng nhau thay đổi để xã hội trở nên tốt đẹp hơn.

3. NÓI VÀ NGHE

Nội dung 1: Thảo luận về một vấn đề đời sống hoặc văn học có nhiều ý kiến khác nhau do các bạn tự chọn, dựa trên những hiểu biết và trải nghiệm riêng của mình (chú ý sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ).

* Dẫn dắt:

- Nêu vấn đề đời sống: cái tôi cá nhân.

- Nêu lí do hay mục đích bài nói: mỗi người đều có giá trị của riêng mình, ai cũng có cái “tôi” từ đó hình thành nên những tính cách khác nhau, muôn màu muôn vẻ. Việc nhận thức được giá trị của bản thân, có cái “tôi” mang vẻ đẹp, bản sắc riêng là điều rất tốt. Tuy nhiên, trong cuộc sống có nhiều cá nhân quá đề cao cái tôi, dẫn đến những hành vi không tốt.

* Luận điểm 1: Cần có ý thức tạo dựng và giữ gìn, phát triển cái tôi riêng biệt

- Giải thích, nêu biểu hiện của quan niệm cần từ bỏ.

+ Cái tôi: là bản ngã, bản chất, cá tính của mỗi con người, hiện hữu từ khi chúng ta sinh ra,…

⇒ Vừa để phân biệt, để mỗi cá nhân tự khẳng đinh mình.

+ Quá đề cao cái tôi cá nhân: luôn xem mình là nhất, coi trọng giá trị của bản thân của mình hơn người khác (chỉ công nhận những ưu điểm của bản thân - không chấp nhận nghe những điểm yếu, khuyết điểm của mình; luôn cảm thấy bản thân làm tốt hơn người khác thậm chí là tốt nhất, không ai có thể tốt hơn mình; không chấp nhận sự thay đổi, không muốn học hỏi, nghiên cứu,…)

* Luận điểm 2: Không nên đề cao quá mức cái tôi

Quá đề cao cái tôi sẽ có tác hại:

- Khiến cá nhân trở nên ích kỉ, hẹp hỏi, thái độ khinh thường, hống hách với người khác

- Không nhận ra được những thiếu sót, hạn chế hay sai lầm của bản thân; không thể thay đổi và tiến bộ.

- Làm cho mọi người xung quanh khó chịu, không thoải mái; không nhận được sự góp ý chân thành, sự quan tâm, yêu thương từ họ;

⇒ Bài học: cần có sự dung hòa, biết nhìn nhận, phát triển cái tôi riêng biệt theo chiều hướng tích cực,...

Nội dung 2: Giới thiệu và đánh giá về một tác phẩm văn học (thơ trữ tình, truyện thần thoại, sử thi, kịch bản chèo, tuồng dân gian....) theo danh mục được gợi ý trong các phần Củng cố, mở rộng sau mỗi bài học.

Chèo là loại hình nghệ thuật dân gian đại diện cho tiếng nói của những người dân bình thường trong xã hội xưa, là tấm gương phản chiếu cuộc sống con người dưới chế độ phong kiến. Trong các tác phẩm chèo, tác giả dân gian thường ưu ái khắc họa những người phụ nữ thời xưa - tầng lớp gánh chịu nhiều nhất những khổ đau, ngang trái trong xã hội. Xây dựng thành công một vai đào pha: Xúy Vân với những nét tính cách, hành động tưởng chừng như đáng lên án, phê phán kịch liệt, song vở chèo Kim Nham lại để lại cho độc giả những suy ngẫm sâu xa về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

Kim Nham là một nho sinh, trọ học ở Tràng An và được Huyện Tể gả con gái của mình là Xúy Vân - một cô gái thơm thảo, thùy mị và đảm đang. Sau khi kết duyên với Xúy Vân, Kim Nham tiếp tục “dùi mài kinh sử”, miệt mài đèn sách đợi khoa thi, để nàng lại với sự cô đơn tột cùng. Ở quê, Xúy Vân bị gã Trần Phương tán tỉnh, hứa hẹn ngon ngọt. Nàng giả điên với hy vọng có thể thoát khỏi Kim Nham, đến với Trần Phương. Sau những cố gắng chạy chữa không thành, Kim Nham đành phải để nàng được tự do. Xúy Vân tìm đến Trần Phương nhưng bị hắn trở mặt, bội hứa. Từ chốn giả điên, Xúy Vân đã hóa điên thật.

Nguyên nhân dẫn đến hành động giả dại của Xúy Vân là lời xúi giục và hứa hẹn ngon ngọt của Trần Phương - một gã người tình trăng hoa và đểu cáng:

“Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng
... Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,
Nên đến nỗi điên cuồng, rồ dại”.

Song, sâu xa hơn, đó chính là do nỗi buồn chán, cô đơn và khao khát cảnh sống hạnh phúc của nàng sau nhiều ngày tháng đợi chồng theo đuổi nghiệp đèn sách. Xúy Vân phải giả điên để thoát khỏi cuộc hôn nhân với Kim Nham, đến với người tình mà nàng nghĩ sẽ đem lại cho mình những hạnh phúc lứa đôi, quây quần, đoàn tụ.

Xúy Vân xuất hiện trong trích đoạn với lời nói lệch (lối nói có giọng điệu riêng trong chèo, thường được dùng để tạo không khí sôi nổi hoặc gấp gáp):

“Đau thiết thiệt van
Than cùng bà Nguyệt
Đánh cho lê liệt
Chết mệt con đồng
Bắt đò sang sông
Bớ đò, bớ đò”.

Đoạn mở đầu đã giới thiệu được sự ngang trái trong tình cảnh, tâm trạng nhân vật. Xúy Vân xuất hiện với tâm trạng buồn khổ về duyên tình, khiến con người tê tái chỉ còn biết cầu cứu, kêu than cùng bà Nguyệt, mong nhận được sự đồng cảm của cộng đồng. Lời hát vỉa càng làm rõ nét hơn tâm trạng thất vọng của Xúy Vân khi những lời khẩn cầu rơi vào im lặng. Lời hát quá giang (hay còn gọi là hát đò):

“Cách con sông nên tôi phải lụy đò,
Bởi ông trời tối phải lụy cô bán hàng”.

Buồn tủi vì duyên phận, nhân vật buông xuôi theo tiếng gọi “gió trăng”, muốn sang sông để tìm kiếm hạnh phúc.

“Chả nên gia thất thì về,
Ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười”.

Đó là tâm trạng muốn phản kháng, thoát khỏi thực tại. Phía bên kia sông, không biết điều đón chờ có phải là hạnh phúc mà nàng mong chờ hay không, nhưng có lẽ trước mắt Xúy Vân cần được giải thoát, chỉ cần được thoát ly khỏi thực tại cô đơn, tủi nhục mà nàng đang ngày ngày phải đối diện.

“Tôi chắp tay lạy bạn đừng cười
Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng
Gió trăng thời mặc gió trăng
Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên”.

Xúy Vân khao khát vượt thoát nhưng cũng lo âu, dằn vặt. Nàng đã hành động trái với đạo lí nhưng biết mình sai, hoảng hốt lo sợ điều tiếng thị phi, sợ người đời khinh miệt, ngầm hổ thẹn vì việc làm của mình. Nàng phân bua và cũng tự dặn lòng mình cần giữ tiết. Đó là mâu thuẫn giữa tình cảm, khát vọng được giải thoát với ý thức về đạo đức của người phụ nữ theo luật lệ phong kiến và dư luận xã hội xưa.

Trước khi xưng danh, nhân vật nói: “Chị em ơi! - Ra đây, có phải xưng danh không nhỉ?”. Có tiếng đế vọng lại: “Không xưng danh, ai biết là ai?”. Điều này cho thấy giữa khán giả và sân khấu dường như không có khoảng cách đáng kể. Nói cách khác, sân khấu như một không gian được hình thành tự nhiên giữa vòng vây của khán giả, gây cảm tưởng người diễn là người vừa bước tách ra từ đám đông để lên sàn diễn.

Nhân vật đã xưng rõ tên, tính cách:

“Chẳng giấu gì, Xúy Vân là tôi
Tuy dại dột, tài cao vô giá
Thiên hạ đồn rằng tôi hát hay đã lạ”.

Nhân vật giới thiệu cả nét xấu của mình một cách rất tự nhiên, bởi khi đã được nghe những lời xưng danh, khán giả không còn phải bỏ nhiều công để suy đoán về tính cách nhân vật nữa mà có thể tập trung theo dõi nghệ thuật trình diễn của diễn viên.

“Con gà rừng ăn lẫn với công,
Đắng cay chẳng có chịu được, ức!
Mà để láng giềng ai hay?
... Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên”.

Nhân vật giới thiệu hoàn cảnh, thân phận của mình, tự thấy mình lạc lõng, vô nghĩa trong gia đình Kim Nham. Từ “ức” - tiếng đệm trong câu hát vừa mô phỏng tiếng kêu của con gà nghẹn thóc, vừa mang nghĩa ấm ức, uất ức, bất bình trước thực tại. Nhân duyên khiến Kim Nham và Xúy Vân phải ràng buộc nhau nhưng thế giới tâm trạng, những ao ước của hai người lại khác xa nhau, không thể đồng cảm và chia sẻ.

“Chờ cho bông lúa chín vàng
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm”.

Nhân vật nói đến ước mơ hạnh phúc của mình, về một cuộc sống đầm ấm, ríu rít, hạnh phúc thật bình dị và tươi sáng. Nàng mong ước có cuộc đời bình dị “anh đi gặt, nàng mang cơm” nhưng Kim Nham mải mê đèn sách, thi cử mặc nàng đơn độc với gánh nặng gia đình.

“Rủ nhau lên núi Thiên Thai,
Thấy hai con quạ đang ăn xoài trên cây
Ba cô bán mắm trong làng,
Mắm không bán hết, còn quang với thùng”.

Hình ảnh đôi lứa quấn quít, thể hiện rõ khát khao hạnh phúc của nhân vật. Đó chỉ là những viễn cảnh hạnh phúc giản đơn, vợ chồng cùng nhau đoàn tụ, trải qua ngày tháng lao động đời thường, bình dị,.. Thế nhưng với Xúy Vân, đó lại là những khát khao có lẽ thật xa vời.

Tiếp theo là phân cảnh Xúy Vân giãi bày. Xúy Vân nói điệu sử rầu (lối nói có giọng điệu ngâm nga, chậm rãi, thường đươc dùng ở những lớp chèo giàu tính trữ tình, khi nhân vật giãi bày tâm sự.)

“Than ôi!
Tôi thương nhân ngãi, tôi nhớ nhân tình
Đêm năm canh tôi thức cả vừa năm.”

Tâm trạng nhân vật đang thương nhớ người tình không nguôi.

Xúy Vân hát sắp (điệu hát tươi vui rộn rã, trái ngược với tâm trạng nhân vật trong lời hát):

“Con cá rô nằm vũng chân trâu,
Để cho năm bảy cần câu châu vào.”

Những hình ảnh ẩn dụ đầy chất gợi xoáy sâu vào sự tuyệt vọng về cuộc hôn nhân thiếu vắng tình yêu, sẻ chia của người con gái đáng thương. Hình ảnh “con cá rô nằm vũng chân trâu” thể hiện rõ cảnh sống bế tắc, không lối thoát, “năm bảy cần câu châu vào” chính là những áp lực gia đình, xã hội trói buộc người phụ nữ vào vũng lầy cuộc đời. Tâm trạng nhân vật: tuyệt vọng, bế tắc, cay đắng.

Xúy Vân hát ngược (thường dùng khi cần diễn tả tâm trạng điên loạn của nhân vật, lời hát được khai thác từ loại ca dao nói ngược):

“Chuột đậu cành rào, muỗi ấp cành dơi,
Ông Bụt kia bẻ cổ con nai,
Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây.
Ở trong đình có cái khua, cái nhôi
Ở trong cái nón có cái kèo, cái cột,
Ở dưới sông có cái phố bán bát,
Lên trên biển ta đốn gỗ làm nhà,
Con vâm kia đi ấp trứng ba ba,
Cưỡi con gà mà đi đánh giặc.”

Nội dung lời hát có nhiều đối tượng được nhắc đến nhưng không có mối liên hệ với nhau như tiện đâu nói đó, nhớ gì nói đấy. Mọi sự vật được nhìn theo logic ngược, đảo lại hoàn toàn mới đúng với ghi nhận của tri giác thông thường. Điều này mang lại cảm giác người nói là một kẻ điên hoặc không bình thường. Đây chính là mục đích của Xúy Vân. Tâm trạng nhân vật: sự bức xúc bị dồn nén đến mức nhân vật cảm thấy mọi sự vật đảo điên, không theo trật tự thông thường. Ranh giới giữa điên thật – điên giả khó phân biệt rõ ràng.

Như vậy, thông qua trích đoạn, ta thấy được mục đích giả dại là thoát khỏi cuộc hôn nhân với Kim Nham để đến với Trần Phương. Nguyên nhân phải giả dại: trong xã hội Việt Nam xưa, con người cá nhân chưa được tôn trọng. Những đòi hỏi về quyền tự quyết lối sống hay quyền lựa chọn người mình yêu thương thường bị phán xét một cách nghiêm khắc; với người phụ nữ, những khát vọng mang tính chất “vượt rào” lại càng bị ngăn trở, cấm đoán ngặt nghèo. Song, Xúy Vân không cam chịu cảnh sống cuộc đời cô đơn, bất hạnh, nàng tìm cách tự giải phóng bản thân mình. Việc Xúy Vân phải giả dại thay vì đường đường chính chính đến với tình yêu cho thấy sự bất lực, vô vọng của người phụ nữ trong hành trình tự giải phóng. Đồng thời, đó cũng là người phụ nữ có ý thức về giá trị bản thân, về quyền được hạnh phúc. Xúy Vân từ chỗ là người phá vỡ chuẩn mực của đạo đức lại trở nên đáng thương hơn đáng trách. Chủ đề đạo đức của vở chèo Kim Nham trở nên mờ nhạt và giá trị nhân bản lại tỏa sáng.

Về nghệ thuật, ngôn ngữ trích đoạn chèo sinh động, linh hoạt. Mở đầu đoạn trích là lời gọi đò tha thiết, diễn tả chân thực hoàn cảnh lỡ dở, bẽ bàng của Xúy Vân. Những câu hát tiếp theo đều rất giàu hình ảnh, nhiều ngụ ý, thể hiện tâm trạng bối rối, đầy mâu thuẫn của Xúy Vân. Thủ pháp nghịch dị dân gian được vận dụng: tâm trạng đau buồn nhưng điệu hát lại vui rộn rã, lúc đang khóc lại bật lên tiếng cười, đang cười bỗng chìm vào sầu não. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng nhân vật vừa chân thực, vừa cụ thể vừa tinh tế cho thấy nội tâm phong phú với những mâu thuẫn phức tạp của nhân vật; đồng thời để lại ấn tượng, nỗi ám ảnh khó quên với người đọc về nhân vật.

Với nghệ thuật diễn tả nội tâm đặc sắc, trích đoạn đã thể hiện thành công bi kịch tình yêu và những mâu thuẫn phức tạp trong tâm hồn Xúy Vân. Thông qua trích đoạn, tác giả dân gian đã thể hiện tư tưởng đề cao khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc chính đáng; lên án chế độ phong kiến cùng với những luật lệ hà khắc đã bóp nghẹt quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

Nội dung 3: Lớp học của bạn đã có những hoạt động trải nghiệm gì trong thời gian qua? Hãy lập đề cương cho bản báo cáo kết quả của một trong những hoạt động trải nghiệm đó và trình bày trước nhóm học tập

1. Số lượng người tham gia

Tổng số 45 người trong đó:

- Học sinh của lớp là 40 thành viên.

- Giáo viên và đại biểu của lớp là 5 người.

2. Kết quả

- Buổi trải nghiệm diễn ra an toàn, đúng kế hoạch thực tế.

- Học sinh của lớp tham gia vui vẻ.

- Hăng say khám phá những điều lý thú, bổ ích, tích lũy được nhiều điều hay về truyền thống. lịch sử, tham quan và tìm hiểu rõ về các di tích, danh lam thắng cảnh.

- Bày tỏ lòng biết ơn đến các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì độc lập dân tộc.

3. Bài học kinh nghiệm

- Lớp cần tích cực nêu cao tinh thần đoàn kết.

- Cần hăng hái tham gia các hoạt động hơn.

- Mong muốn các bậc phụ huynh và GVCN tạo ra những chuyến đi ý nghĩa.

  • 3.323 lượt xem
Sắp xếp theo