- Những yếu tố làm nên vẻ đẹp của thơ ca: nội dung và nghệ thuật (ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu…).
- Mỗi bài thơ sẽ truyền tải một thông điệp, tâm trạng khác nhau của nhân vật và tác giả là người tạo ra nó bằng những câu thơ giàu hình ảnh, cảm xúc kết hợp với việc sử dụng các biện pháp tu từ.
(1) Tại sao nên đọc thơ?
- Đọc thơ để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảm nhận được tâm trạng con người qua thiên nhiên và từ đó thấy được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, hình ảnh.
- Có thể trau dồi thêm vốn từ ngữ phong phú hơn, vốn từ ngữ giàu tình cảm, giàu sắc thái; học cách biểu đạt cảm xúc, tâm trạng qua ngôn ngữ viết.
- Người đọc cũng có thể phát triển kĩ năng ngôn ngữ và kĩ năng giao tiếp thông qua việc đọc thơ.
(2) Thế nào là một bài thơ hay?
- Là bài thơ có lời thơ trong sáng, ý thơ hàm súc và phải có tính truyền cảm khiến cho người đọc cảm thấy xúc động, xao xuyến khi đọc thơ.
- Là bài thơ có âm điệu, giọng điệu hay, có kết cấu chặt chẽ, tài tình hoặc phải theo một quy luật nhất định về niêm - luật.
- Một bài thơ hay là một bài thơ mà người đọc cảm nhận được nó, hiểu được tác giả viết gì, miêu tả cái gì và truyền tải quan niệm, suy nghĩ gì.
- Một số bài thơ cùng thể thơ: Qua đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan, Thất ngôn bát cú Đường luật), Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu Trinh, Thất ngôn bát cú Đường luật)...
- Một số bài thơ cùng đề tài: Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải, mùa xuân), Sang thu (Hữu Thỉnh, mùa thu)...
⇒ Những bài thơ giàu cảm xúc, hình ảnh độc đáo…
- Những kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca:
+ Tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác, bố cục và mạch cảm xúc của bài thơ.
+ Nhận xét khái quát về bài thơ.
+ Phân tích hình ảnh tiêu biểu trong từng câu thơ, khổ thơ.
+ Phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ (nếu có)...
Mẫu số 1 - Nắng mới (Lưu Trọng Lư)
Vào những năm 1932 - 1945, phong trào Thơ mới đã thổi vào nền văn học nước nhà một luồng gió mới lạ, đánh thức cả một nền thơ đang “triền miên trong cõi chết”. Một trong số những nhà thơ tiên phong và góp phần làm nên chiến thắng không nhỏ trong phong trào Thơ mới phải kể đến Lưu Trọng Lư. Năm 1939, ông cho ra đời tập thơ đầu tay “Tiếng thu” gây nhiều tiếng vang nhất bởi chất thơ cất lên từ những kỉ niệm thời thơ ấu, về quê hương, dòng sông, cánh diều,... Trong đó phải kể đến “Nắng mới”, một trong những thi phẩm thành công, nổi bật của phong trào thơ mới.
Bài thơ là hồi ức của tác giả về ngươi mẹ thân yêu của mình, một đề tài không hề mới lạ nhưng vẫn lay động tâm hồn người đọc bởi những xúc cảm chân thành kết hợp với nghệ thuật thơ đặc sắc.
Với tình yêu cái đẹp và tâm hồn nhạy cảm, Lưu Trọng Lư luôn đi tìm kiếm và chắt chiu cái đẹp, từ những vẻ đẹp thanh cao đến bình dị, đời thường. Thiên nhiên trong thơ ông tất thảy đều thi vị và thật nên thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương trong vẻ đẹp của nắng mới:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng”
Nắng ở đây không tươi tắn như nắng trong thơ của Hàn Mặc Tử: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. “Nắng mới” ở đây là sự giao thoa giữa ấm và lạnh, nắng và mưa, sáng và tối, khô và ẩm, cũ và mới, dĩ vãng và hiện tại. Lúc này không gian đã chuyển màu sang thời gian, rồi ngược lại thời gian lóng lánh: hắt bên song – biên giới giữa trong nhà và ngoài sân, giữa riêng ta và vũ trụ. Cộng hưởng với ánh nắng soi rọi tiềm thức ấy là tiếng gà trưa xao xác, não nùng. Hai từ láy trong cùng một câu thơ khiến giọng thơ như trầm hẳn xuống, trĩu nặng.
Nhà thơ chập chờn nhớ sống lại kí ức tươi sáng về người mẹ trong những ngày nắng mới:
“Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không”.
Nhớ về thời “dĩ vàng” là nhớ về quá khứ, dù tươi đẹp đến mấy nhưng cũng đã mãi mãi lụi tàn và không thể quay trở lại. Những “ngày không”, có lẽ là những ngày ấu thơ khi tác giả còn nhỏ, được sống cùng mẹ và chưa phải lo nghĩ, vướng bận điều gì.
Từ nỗi nhớ về ngày thơ bé, hình ảnh người mẹ thân yêu, giản dị hiện lên ngày càng rõ nét:
“Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.”
Người mẹ đã không còn nữa, tất cả những gì còn lại chỉ là kỉ niệm nhạt nhòa đọng lại trong tâm trí đứa trẻ lên mười. Cũng là “nắng mới”, nhưng trong quá khứ, nắng không “hắt bên song” mà tràn đầy sức sống, niềm vui “reo ngoài nội” vì ánh nắng đó đến vào những ngày còn mẹ. Từ “reo” như một nốt nhạc bay bổng, lảnh lót, tươi vui giữa một bản nhạc trầm lắng, da diết có phần não nùng. Câu thơ như bừng lên sức sống vui tươi, khác lạ. Trong khổ thơ, hình ảnh mẹ gián tiếp xuất hiện thấp thoáng sau màu ảo đỏ, trước giậu phơi. Có lẽ đó chính là hình ảnh thân thuộc nhất đọng lại trong tâm trí người con.
Hình ảnh người mẹ hiền lương - người gắn bó sâu nặng nhất với tác giả, đã chịu biết bao khổ cực trong cuộc sống hiện lên trong những dòng thơ nhẹ nhàng mà đầy cảm xúc. Chi tiết miêu tả ngoại hình của mẹ chỉ xuất hiện trong hai dòng thơ cuối, nhưng đó là hình ảnh đẹp nhất:
“Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa”
Buổi trưa là thời gian ngưng đọng nhất. Lưu Trọng Lư đã đi rất xa về quá khứ để nhớ tỉ mỉ cảnh người mẹ đưa áo ra dậu phơi mỗi khi có nắng mới. Cái nắng mới của hoài niệm này nao nức, tươi vui bởi gắn với một cậu bé lên mười, với một người mẹ trẻ chăm chút, hiền dịu, nụ cười tỏa sáng trên gương mặt. Không gian màu đỏ của nắng và áo trở thành một điểm son trong nỗi nhớ về tuổi thơ của tác giả. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “nét cười đen nhánh” để lại dư vị, cảm xúc vấn vương, lan tỏa trong lòng người đọc. Không phải “nụ cười” hay “miệng cười” mà chỉ là “nét cười” - sự kín đáo, nhẹ nhàng và cũng thật nhanh, như chỉ lướt qua chứ chưa kịp đọng lại trên khuôn mặt mẹ. Hình ảnh ấy cũng gợi nhớ đến hình ảnh những cô hàng xén trong thơ Hoàng Cầm:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
(Bên kia sông Đuống)
Bài thơ không chỉ hấp dẫn độc giả bởi tình cảm tha thiết, chân thành và nỗi nhớ sâu sắc của người con hướng về người mẹ tần tảo sớm hôm mà còn bởi nghệ thuật, tài năng ngòi bút Lưu Trọng Lư. Nghệ thuật đảo ngữ được nhà thơ sử dụng góp phần làm tăng khả năng biểu đạt của ngôn ngữ thơ. Giọng điệu thơ giãi bày, bộc bạch những tâm tình sâu kín, chủ thể “tôi” trực tiếp thể hiện những cảm xúc chân thực, lay động lòng người. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, gần gũi với bạn đọc,…
Đọc bài thơ, ta càng thấm thía hơn về tình mẫu tử - thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý trong mỗi con người. Bên cạnh những dòng thơ chan chứa tình cảm, cảm xúc về mẹ - người phụ nữ cả đời tần tảo hi sinh của nhà thơ, người đọc còn cảm nhận được sự tinh tế, tâm hồn nhạy cảm của Lưu Trong Lư trước thiên nhiên, đất trời. Có lẽ bởi vì vậy mà nhiều năm trôi qua nhưng sức sống của bài thơ vẫn tràn đầy, để lại những ấn tượng nhẹ nhàng mà đậm sâu trong lòng độc giả.
Mẫu số 2 - Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương)
Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự trân trọng trước vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời lận đận của họ:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Bài thơ mang hai nét nghĩa. Trước hết là nét nghĩa tả thực - miêu tả hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả đã miêu tả hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cùng với đó là cách thức làm bánh luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín. Bên trong nhân bánh thường được làm bằng đường phên. Viên bánh rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nắn có khéo léo. Hình ảnh tả thực chiếc bánh trôi từ hình thức đến cách thức.
Nhưng không chỉ mang nét nghĩa như vậy, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa qua hình ảnh “bánh trôi nước”. Mở đầu bằng cụm từ “thân em” - đây là một mô-típ đã rất quen thuộc trong ca dao:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Hay như:
“Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng”
Ở bài thơ “Bánh trôi nước” hay các bài ca dao, dân ca đều xuất phát từ niềm thương cảm, xót xa cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ là những con người nhỏ bé trong xã hội. Cuộc đời trôi nổi, bấp bênh và không được tự quyết định cuộc sống của bản thân, chịu sự chi phối của người khác.
Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên “vừa trắng lại vừa tròn” gợi ra một thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. Đó là chuẩn mực của người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa. Xinh đẹp là vậy, nhưng cuộc đời lại nhiều bất hạnh. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” gợi ra một cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân. Câu thơ “rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn” đã nói lên số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. Nhưng dù có chịu nhiều bất hạnh, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn gìn giữ được tâm hồn cao quý: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. : Dù cuộc đời có khó khăn, khổ cực thì họ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc và không thay đổi. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với đầy đủ nét đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh ẩn dụ, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng, hàm súc… nhằm làm nổi bật nên ý nghĩa mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Như vậy, “Bánh trôi nước” là một tác phẩm giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Từ đó, chúng ta cần phải trân trọng, yêu thương những người phụ nữ hơn.