- Có/không.
- Trải nghiệm: Thích thú, hào hứng với cái mới nhưng lại tiếc cái cũ, lưu luyến chưa muốn bỏ. Phân vân giữa việc sử dụng hai loại cũ - mới,...
Tiêu chí | Thuật hứng (Bài 1 - Nguyễn Trãi) |
Tương tư chiều (Xuân Diệu) |
Bài thơ |
Trúc mai bạn cũ họp nhau quen. Cửa mận tường đào chân ngại chen. Chơi nước, chơi non đeo tích cũ; Qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn. Thi nghèo sự biến nhiều bằng tóc; Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn. Mùi thế đắng cay cùng mặn chát. Ít nhiều đã vậy một hai phen. |
[...] Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi! Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi, Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời. Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm! Gió bao lần từng trận gió thương đi, - Mà kỷ niệm, ôi, còn gọi ta chi... |
Thể thơ |
→ Niêm luật chặt chẽ. |
→ Câu dài ngắn linh hoạt. |
Nhịp thơ |
|
|
Cái tôi |
|
|
Vấn đề được nêu để bàn luận: Hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ mới.
→ Bàn luận về tinh thần của thơ mới.
- Cả thơ mới và thơ cũ đều có những bài sử dụng trần ngôn sáo ngữ; đều có những kiệt tác và cũng có cả những “cái tầm thường, cái lố lăng”.
- Cái mới vẫn tồn tại trong những cái cũ.
→ Rất khó để phân biệt rạch ròi thơ mới và thơ cũ.
Tiêu chí để phân biệt thơ mới – thơ cũ: phải nhìn vào đại thể; căn cứ vào hai chữ “ta” và “tôi”.
- Luận điểm: Cái tôi và cái ta trong thơ mới và thơ cũ.
- Lí lẽ: Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nó giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau.
→ Tác giả đưa ra vấn đề rồi gợi mở, triển khai ở phía sau.
- Cái tôi “thực bỡ ngỡ”, như “lạc loài nơi đất khách” bởi nó mang “quan niệm cá nhân” - xưa nay chưa từng thấy.
- Khi cái “tôi” xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!
- “Ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!”
- Tâm hồn của thi nhân chỉ vừa thu xong khuôn khổ chữ “tôi”.
- Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ “tôi”. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
→ Mỗi tác giả có một nét riêng mang đậm dấu ấn bản sắc cá nhân.
Sử dụng biện pháp cấu trúc: “Chưa bao giờ như bây giờ…”, so sánh đối chiếu.
- Khó khăn khi phân biệt thơ mới - thơ cũ.
- Tiêu chí phân biệt thơ mới - thơ cũ: cái tôi - cái ta.
- Cái tôi - tinh thần của thơ mới.
- Khẳng định sự độc đáo, mới lạ của thơ Mới.
→ Mối quan hệ giữa các luận điểm: Các luận điểm sắp xếp theo trình tự logic: nêu vấn đề (chỉ ra sự khó khăn khi phân biệt thơ mới - thơ cũ), giải quyết vấn đề (làm rõ sự khác nhau, chỉ ra cái tôi trong thơ mới) và kết luận.
Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích nêu sự khó khăn khi phân biệt thơ mới - thơ cũ, đó cũng là khao khát của người yêu văn, mong muốn, quyết tâm tìm cho được tinh thần thơ mới.
- Các nhà thơ mới có xu hướng trốn tránh thoát li hiện thực (Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá…)
- Tác giả chỉ ra rằng Thơ mới chủ yếu đào sâu vào nội tâm tình cảm, tâm hồn của con người, khác với thơ truyền thống họ thường thể hiện trên bề rộng, mơ hồ và cố định.
- Đưa ra ví dụ về các nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với những nét riêng, những cái tôi mang đậm dấu ấn, bản sắc cá nhân.
→ Đi từ lý thuyết đến những bằng chứng cụ thể, sinh động, giúp người đọc hiểu được tinh thần của thơ mới: luôn phản ánh rõ ràng, chân thực nhất về thế giới nội tâm ẩn sâu trong tâm hồn con người.
- Tác giả đưa ra 2 câu thơ khá nổi tiếng trong 2 hoàn cảnh khác nhau, một cái thuộc Thơ mới nhưng lại mạng nét cổ kính và cái còn cái thuộc thơ cũ nhưng lại mang nét hiện đại → Sự khác nhau của 2 thể loại không phụ thuộc vào giai đoạn mà phụ thuộc vào cái hay của chúng.
- Chỉ ra điểm khác nhau giữa thơ mới - thơ cũ (Cái ta - cái tôi)
- Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.
→ Khẳng định ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để thể hiện cái bản sắc dân tộc.
→ Các bằng chứng sáng rõ, đa dạng, góp phần chứng minh cho luận điểm của tác giả.
- Biện pháp nghệ thuật:
- Giá trị đặc sắc:
- Hiểu biết về phong trào Thơ mới:
- Lối văn phê bình của Hoài Thanh:
Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Gợi ý triển khai
- Lời thơ là hoạt động ngôn ngữ của nhà thơ được rút ra từ kho từ vựng của cộng đồng mình. Song để tạo ra lời thơ thật sự mới, có khả năng chuyển tải cảm hứng mới của thời đại, làm hưng phấn nhịp điệu trái tim của cả thế hệ, nhà thơ phải tích cực làm giàu có vốn từ.
→ Các nhà thơ phong trào Thơ mới đã vận dụng tài hoa, tinh tế vốn từ ngữ dân tộc, thể hiện tình yêu với ngôn ngữ tiếng Việt mà rộng hơn là tình yêu quê hương, đất nước.
- Một số biểu hiện:
+ Thơ Mới làm một “cuộc nổi loạn ngôn từ” bằng cách sử dụng và kết hợp mới để tạo nên hệ thống từ vựng mới:
+ Ngôn ngữ giàu tính nhạc, giàu hình ảnh.
+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh (Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi - Xuân Diệu); ẩn dụ (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Này lắng nghe em khúc nhạc hường - Xuân Diệu); trùng điệp (Là thế, là thôi, là thế đó/Mười năm thôi thế mộng tan tành - Vũ Hoàng Chương),...