Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường

“Hương Giang ơi! Dòng sông êm.

Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”

A. Hệ thống luận điểm

B. Gợi ý mở bài

Mẫu số 1

“Một lần anh đến Huế thơ
Gặp cô gái đẹp say mê giấc nồng
Sông Hương quyến rũ lạ lùng,
Em choàng tỉnh giấc, ngượng ngùng nhìn tôi.”

Sông Hương đã đi vào thơ ca nghệ thuật như một niềm cảm hứng bất tận đối với văn nghệ sĩ. Và có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường – một tài năng nghệ thuật viên mãn cũng đã phải lòng sông Hương xứ Huế như một lần gặp gỡ định mệnh để từ đó dành cho sông Hương một bài ký trang trọng. Con sông xứ Huế hiện lên trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” như một sinh thể vừa xinh đẹp, tài hòa, vừa thăng trầm, chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm, lắng sâu với nền văn hóa của riêng nó.

Mẫu số 2

Ai đó đã từng nói: “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mang theo.” Nếu như tên tuổi của Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng, Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày tha thiết chở nặng phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

Mẫu số 3

“Ôi những dòng sông bắc nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát.”
                                                         (Nguyễn Khoa Điềm)

Những dòng sông yêu thương của đất nước Việt Nam đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Dường như mỗi nhà văn, nhà thơ lại có riêng cho mình một dòng sông để thương, để nhớ. Nếu Hoàng Cầm tha thiết với sông Đuống thân thương, Nguyễn Tuân say mê con sông Đà hung bạo “ngày đêm làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc” thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đắm đuối với dòng sông Hương xứ Huế thơ mộng, kiều diễm. Tình yêu, niềm say mê với Hương giang của ông đã đi vào bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

C. Phân tích chi tiết

I. KHÁI QUÁT CHUNG

1. Tác giả

- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9/9/1937 tại thành phố Huế (quê gốc ở Quảng Trị).

- Ông sáng tác nhiều thể loại, thành công ở cả thơ và văn xuôi nhưng đạt được thành tựu lớn nhất ở thể kí. Ông đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980 với tác phẩm “Rất nhiều ánh lửa”. Ngoài ra, ông viết nhiều tản văn in trên các báo.

- Sơ lược về kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

  •  Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường đa dạng về đề tài: chiến tranh, danh thắng ở nước ngoài, vùng miền của đất nước,... Từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ những miền đất xa xôi hẻo lánh đến những thành phố đông đúc hay vùng châu thổ sông Hồng, mảnh đất nào cũng từng in dấu chân Hoàng Phủ Ngọc Tường và hiện hình lên từng trang kí của nhà văn.
  • Phần lớn kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc dạng kí văn hóa. Ở dạng này yếu tố văn hóa – lịch sử đậm đặc. Bằng thể khí nhà văn đã truyền tài được nhiều vấn đề thuộc về vật chất lẫn phi vật thể của nhiều vùng quê hương đất nước.
  • Kí viết về Huế chiếm một số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Huế trở thành một phần trong đời sống tinh thần của nhà văn. Những mẫu kí viết về Huế thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của Hoàng Phủ Ngọc Tường với mảnh đất giàu trầm tích văn hóa.

⇒ Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.

2. Tác phẩm

- Xuất xứ: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” rút ra từ tập bút ký cùng tên, được xuất bản năm 1984. Tập khí gồm 8 bài viết về nhiều đề tài.

  • Có những bài đậm chất sử thi với cảm hứng anh hùng, ngợi ca đất nước, con người Việt Nam.
  • Có những bài lại thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó nhà văn bộc lộ sự gắn bó với quê hương đất nước và niềm tự hào về truyền thống văn hóa lịch sử của dân tộc.
  • Đặc biệt là những bài ký viết về thiên nhiên và con người Huế.

⇒ Trong số những bút ký đó, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài ký độc đáo về sông Hương. Dòng sông khơi gợi cảm hứng cho ca nhạc họa đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn từ nhiều góc nhìn, mang đậm nét riêng của “văn hóa Phú Xuân”.

- Vị trí: Đoạn trích nằm ở phần đầu bút kí, có lược bỏ một số đoạn.

- Nhan đề:

  • Mang nghĩa hỏi: là 1 câu hỏi tu từ mơ hồ, mông lung mà chính nội dung bài kí là câu trả lời, 1 câu trả lời ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông xứ Huế.
  • Mang tính chất biểu cảm: Là cái cớ để nhà văn miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính, tươi đẹp; Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả với sông Hương, thành phố Huế thân yêu.

II. PHÂN TÍCH

1. Vẻ đẹp sông Hương từ góc độ địa lý

1.1. Sông Hương ở thượng nguồn 

1.1.1. Sông Hương – bản trường ca rừng già

- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mở đầu bài kí của mình bằng câu văn mang tính chủ quan: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình nhưu chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.”

⇒  Lời nhận xét thể hiện niềm tự hào của mình với dòng sông Hương, ông đã đặt ngang hàng Hương Giang với vẻ đẹp các dòng sông trên thế giới.

- Thủy trình của sông Hương bắt đầu từ thượng lưu, nơi mà sông Hương trong cảm nhận của nhà văn giống như: “bản trường ca của rừng già”

  • Tên gọi ấy xuất phát từ cội nguồn của dòng sông là đại ngàn của Trường Sơn hùng vĩ.
  • Sông Hương toát lên vẻ đẹp dữ dội khi nó qua dãy Trường Sơn hoang dại mà người đọc khó có thể quên được những câu văn tùy bút đẹp như một bản nhạc đủ nốt trầm bổng: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”.

⇒ Những động từ mạnh, những cấu trúc điệp lại liên tiếp đã khiến cho con sông hiển hiện như một khúc ca dài bất tận của thiên nhiên

  • Nhưng trường ca không chỉ có sức mạnh mà còn trong bản chất của mình còn có những nét trữ tình bay bổng: “Có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Người đọc như được ngân nga những nốt nhạc dịu dàng, say đắm của sông Hương xứ Huế.

⇒ Để tạo nên sự man dại của dòng sông ở phần thượng nguồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng dày đặc nghệ thuật đối lập, tương phản, so sánh để kích thích thích trí tưởng tượng của người đọc và từ đó độc giả được thỏa sức tưởng tượng những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông.

1.1.2. Sông Hương – cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại

- Vẻ nguyên sơ, hoang dã, thâm nghiêm của rừng già đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy nghĩ của nhà văn giống như một cô gai Di-gan: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do, trong sáng.”

- Nếu ai đã từng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một cô gái Di-gan thì có lẽ sẽ bị thu hút bởi sự bí ẩn nhưng mạnh mẽ vô cùng với làn da nâu rám nắng, một đôi mắt xanh thăm thẳm như những thảo nguyên, mái tóc vàng đầy nắng và gió. Họ còn biết đến bởi những vũ điệu bốc lửa, đắm say và thuật bùa chú.

- Sông Hương nơi thượng nguồn cũng vậy, sống cuộc đời phóng khoáng, tự do của dân du mục, của những con người không bao giờ chịu khuất phục

⇒ So sánh sông Hương với hình ảnh cô gái Di-gan là cái nhìn tài hoa và đầy táo bạo của tác giả làm sông Hương hiện lên như một sinh thể có tính cách, có tâm hồn, càng làm tăng thêm sức quyến rũ của dòng sông. Nó mang vẻ đẹp căng tràn sức sống, mạnh mẽ, khỏe khoắn hoàn toàn đối lập của sông Hương khi chảy qua đồng bằng.

1.1.3. Sông Hương – người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.

- Rừng già Trường Sơn với cấu trúc đặc biệt đã chế ngự sức mạnh bản năng người con gái của mình để khi ra khỏi rừng sông Hương nhanh chóng mang một vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ, trờ thành người mẹ, phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.

⇒ So sánh sông Hương với hình ảnh người mẹ phù sa là sự khám phá vẻ đẹp của nó từ cội nguồn. Rừng già đã bồi đắp cho con sông phù sa trù phú. Đó là nguồn sinh lực dồi dào để sông Hương nuôi dưỡng cả cánh đồng Châu Hóa.

⇒ Qua đó tác giả còn khẳng định vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ của nó. Đây là phát hiện độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường , cho thấy vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương đồng thời hiểu sâu hơn về lối tư duy đa chiều, có chiều sâu trí tuệ của tác giả.

1.2. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế

- Sau cái khởi nguồn ở vùng thượng lưu, sông Hương tiếp tục hành trình cam go, vất vả của mình để đến với Huế. Trước khi chảy vào lòng thành phố thân thương, nó cũng đã kịp để lại những dấu ấn riêng của mình.

1.2.1. Sông Hương – người gái đẹp của cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại.

- Vẻ đẹp của sông Hương trước khi vào thành phố Huế là cái đẹp mềm mại của một người con gái đang phô khoe những đường cong tuyệt mĩ.

- Liên tưởng đến cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng” – Hoàng Phủ Ngọc Tường  đã làm toát lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của dòng sông, để từ đó ngòi bút của nhà văn cuốn hút người đọc vài thủy trình đầy mê hoặc của dòng sông. Tác giả viết: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. “Và người tình ấy với Hương giang không ai khác ngoài kinh thành Huế.”

⇒ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng để dòng sông mang vẻ đẹp trữ tình, vừa bừng lên sức sống.

1.2.2. Sông Hương mềm mại,uyển chuyển

- Tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm” , “rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. Hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái đẹp” gian truân và nhiều thử thách khi phải vượt qua điện Hòn Thén, vấp Ngọc Trản, Nguyệt Biểu, Lương Quán,…

- Mỗi đường đi nước bước của sông Hương gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng, nhờ đó mà không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại luôn biến hóa thú vị, bất ngờ.

  • Có những câu văn giàu chất hoa đến mức cứ ngỡ như đường cọ của người nghệ sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh thiên nhiên xứ Huế: “vòng qua thềm đất bãi Nguyễn Biểu, Lương Quán rồi đột ngột vẽ hình cung thật tròn về phía đông bắc.”
  • Lại có những câu gợi nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và cảm xúc: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”

⇒ Thủ pháp nhân hóa, so sánh được sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc, hình ảnh góp phần đáng kể vào việc khắc họa dòng sông thơ mộng trữ tình.

- Con sông Hương chảy qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt, góp nhặt sắc núi Ngọc Trản rồi qua Tam Thai, Lưu Bảo để rồi “từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa”. So sánh dòng sông như tấm lụa không chỉ cho ta thấy đường nét mà còn gợi lên màu sắc mượt mà, êm mát làm cho dòng sông như một bức tranh.

1.2.3. Sông Hương – vẻ đẹp trầm mặc rất Huế.

- Đi giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi Huế đến đây như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng rừng thông u tịch”

- Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông như trở nên nghiêm trang hơn, nó như khoác lên tấm áo “trầm mặc”, mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân.

⇒ Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về hôm nay.

- Vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương là vẻ đẹp mang linh hồn xứ Huế, phát hiện ra vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương là nhà văn đã chỉ ra mối quan hệ của nó với cái hồn, cái thần của quê hương, xứ sở. Vẻ đẹp trầm mặc ấy đã được tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa nhịp chảy của dòng sông nước bằng hình ảnh của những rừng thông u tịch, những lăng tẩm đồ xộ, đặc biệt là tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang.

- So sánh vẻ đẹp trầm mặc của dòng sông với triết lí cổ thi là đem cái hữu hình đặt bên cái vô hình. Đây là hình ảnh liên tưởng tài hoa, táo bạo giúp ta hình dung ra gương mặt tinh thần của dòng sông.

⇒ Sông Hương hiện lên với hình ảnh người con gái Huế, được soi chiếu trên nhiều điểm nhìn, nhiều phương diện, nhiều góc nhìn khác nhau tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn của dòng sông.

⇒ Thể hiện ngòi bút tinh tế, tài hoa và lịch lãm của nhà văn. Đồng thời bộc lộ tình yêu, sự gắn bó của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế và đằng sau đó là tình yêu đất nước.

1.2.4. Màu sắc sông Hương.

- Những ngọn đồi soi bóng xuống sông Hương tạo nên “những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố”, “sớm xanh trưa vàng, chiều tím”

⇒ Nhà văn miêu tả một cách tinh tế màu nước sông Hương, mỗi thời điểm khác nhau tạo nên vẻ đẹp đa dạng, sinh dộng tạo nên không gian lãng mạn, thơ mộng, huyền ảo.

⇒ Minh chứng cho khả năng quan sát tinh tế, tài hoa của tác giả.

1.3. Sông Hương giữa lòng thành phố Huế

- Cuối cùng sông Hương cũng đến được nơi mà nó cần đến, cũng gặp được “người tình mong đợi”. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long “để rồi giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên”

⇒ Đó là quy luật tất yếu. Có ai từng quá nửa hành trình trong cuộc đời mình đi tìm người tình trong mộng với bao gian nao, vất vả giờ đây khi gặp được lại không vui?

- Dòng sông lúc này chảy “thật chậm, thật chậm” như để tìm kiếm, ngắm nhìn trọn vẹn thành phố yêu dấu nằm sâu trong tâm thức dòng sông tự bao giờ. Rồi con sông rộ lên một niềm vui khi nhìn thấy “chiếc cầu trắng” đó là cầu Trằng Tiền, và mỗi nhịp cầu như một nhịp đập, nhịp thở của người dân cố đô. Mỗi nhịp cầu được thi vị hóa như một vành trăng non, nghiêng mình soi bóng trên dòng sông xanh biếc, trầm mặc như nhớ thương ai toát lên nét đẹp rất riêng của Huế và gợi liên tưởng đến dòng sông Đà của Nguyễn Tuân: “Chao ôi! Trông con sông vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.

- Con sông như một cô gái e lệ, dịu dàng nghiêng mình chào Huế: “sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến”, “như một tiếng vâng không nói của tình yêu”

- Hoàng Phủ Ngọc Tường  đã so sánh sông Hương với sông Xen ở Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét càng làm cho dòng sông cổ kính, quý giá hơn. Điểm giống nhau giữa ba con sông này là đều nằm giữa lòng thành phố thân yêu của nó. Nhưng khác với những dòng sông trên, sông Hương khi đi vào lòng thành phố thân yêu, nó trôi đi thật chậm chứ không nhanh như đoàn tàu tốc hành của dòng sông Nê-va.

1.4. Sông Hương khi rời thành phố

- Nếu đoạn chảy trong lòng thành phố sông Hương mang tâm trạng phấn khởi của người phụ nữ đang yêu thì đoạn rời khỏi kinh thành nàng lại mang tâm trạng lưu luyến không muốn rời. Đang chảy theo hướng “ chếch về phía bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói giữa màu xanh biếc cảu tre trúc và của những vườn cau.” – cảnh thôn Vĩ đẹp như trong tranh – nơi mà Hàn Mặc Tử từng khắc khoải quay trở lại khi đang năm trên dường bệnh:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

- Cảnh đẹp như chốn bồng lai làm cho Hương giang lại càng lưu luyến hơn, nàng “sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoắt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố một lần cuối ở góc Bao Vinh cổ xưa”

  • Khúc quanh ấy là một nỗi vương vấn, là cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, giống như nàng Kiều trong đêm tình tự
  • Sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về còn nhớ”

⇒ Hoàng Phủ Ngọc Tường  đã nhìn ra mối quan hệ giữa sông Hương và thành phố Huế như mối duyên Kim Kiều và phát hiện hành trình của sông Hương là hành trình của một người tìm người tình của mình là thành phố tương lai của nó. Cách nhìn này làm sông Hương mang vẻ đẹp tình tứ, lãng mạn.

⇒ Liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường  phù hợp với cấu tứ và tùy bút cho thấy tâm trạng sông Hương khi rời xa Huế: đó là nỗi lòng bâng khuâng cảu người con gái khi phải rời xa người mình yêu, đó là chút lẳng lơ mà kín đáo, táo bạo mà vẫn tình tứ.

+ Qua hình ảnh này Hoàng Phủ Ngọc Tường  còn khẳng định phẩm chất của con người xứ Huế – những con người nặng lòng với quê hương xứ sở, dù có đi đâu vẫn chung tình với mảnh đất quê hương

⇒ Qua những cảm nhận về sông Hương, có thể thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ nhà văn đều thể hiện một cảm nhận sâu sắc và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn ấy và giọng điệu của các đoạn văn ta cảm nhận được một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với vẻ đẹp tự nhiên, đoạn màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.

2. Vẻ đẹp sông Hương dưới góc độ văn hóa

2.1. Sông Hương dưới góc độ lịch sử

2.1.1. Sông Hương – bản hùng ca ghi dấu chiến công oanh liệt

Những thế kỉ trung đại
  • Là “một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước dưới thời các vua Hùng”
  • Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi sông Hương mang tên là Linh Giang, nó “đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc”
Thời cận đại
  • "Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”
  • “Nó sống hết lịch sử kinh thành của thế kỉ XIX với những cuộc khởi nghĩa đẫm máu”
Thời hiện đại (Từ năm 1945)
  • Chứng kiến những chiến công long trời lở đất thời Cách mạng tháng Tám năm 1945
  • Nó cổ vũ lồng nhiệt cho cuộc nổi dậy tổng tiến công xuân Mậu Thân năm 1968
  • Nó đau đớn hứng chịu sự tàn phá khốc liệt của đế quốc Mỹ những năm 1975

⇒ Sông Hương như một nhân chứng lịch sử của kinh thành Huế. Đó là dòng sông “của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”

  • Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu về sông Hương và Huế: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ những đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc” trong cuộc tiếp đón ở Thành ủy Huế chào mừng đoàn đại biểu của hội nghị tổng kết.
  • Sự đánh giá của người Mĩ (nhóm giáo sư đại học Tooc-nen, Ra-pha-en Li-tao-ơ và Nooc-man U-phấp): “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hóa, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố London, Berlin,…”

⇒ Những dòng thương nhớ đầy tự hào.

2.1.2. Sông Hương – vẻ đẹp giản dị của người con gái dịu dàng của đất nước.

- Điều làm nên vẻ đẹp đáng trân trọng và đáng mến cảu con sông là khi nghe lời gọi của Tổ quốc “ nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công” nhưng khi trở về với cuộc sống bình thường “sông Hương” “tự nguyện” “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”

- Những thay đổi này của sông Hương ngỡ bất ngờ mà không hề bất ngờ bởi nó mang cái dáng dấp, cái vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua :

“Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”
                                                          (Nguyễn Đình Thi)

- Lịch sử – hùng tráng và đời thường – giản dị, sông Hương đã tự biết thích ứng với từng hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau. Điều đó không chỉ khiến cho dòng sông luôn trở nên mới mẻ trong cảm nhận của con người mà còn có thêm những vẻ đẹp mới.

- Trong cuộc sống bình thường, sông Hương là người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy đẹp nhất trong ngày cưới với màu điều lục:

  • Bên trong đỏ rực : mãnh liệt, mạnh mẽ đầy cá tính, nồng nhiệt.
  • Bên ngoài màu xanh càm của sương khói thơ mộng.
  • Giống như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên ẩn dấu khuôn mặt của Hương Giang.

⇒Trong liên tưởng này, sông Hương thực sự trở thành một người con gái của xứ Huế với vẻ đẹp đặc trưng trong sắc áo màu điều lục, màu tím tha thiết, thủy chung, dịu dàng, đằm thắm.

⇒ Tác giả đã phát hiện ra mối quan hệ giữa sông Hương với trang phục truyền thống của các cô dâu Huế. Theo tác giả, màu ao điều lục ấy bắt nguồn từ vẻ đẹp đặc trưng của sông Hương. Màu áo ấy cũng chính là màu của sương khói sông Hương. Cách miêu tả này càng làm tô lên vẻ đẹp của xứ Huế, thấy rõ hơn mối quan hệ khăng khít giữa sông Hương với văn hóa đất cố đô.

2.2. Dòng sông của thi ca, âm nhạc

2.2.1. Âm nhạc

- Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường  không quên một nét đẹp văn hóa đặc trưng gắn liên với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên sông Hương.

- Ở góc nhìn âm nhạc, tác giả gọi sông Hương là “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”

  • Liên tưởng này cho ta thấy mối quan hệ giữa sông Hương với nền âm nhạc cổ điển Huế, thể hiện cái nhìn độc đáo của tác giả về sông Hương từ góc độ văn hóa nghệ thuật: muốn nghe nhạc Huế phải nghe trên sông Hương vào lúc đêm khuya, có như vậy mới cảm nhận được hết linh hồn của nó.
  • So sánh sông Hương với hình ảnh người tài nữ đánh đàn còn cho ta thấy vẻ đẹp phong tình, lãng mạn song cũng rất đôi quyến rũ. Hình ảnh so sánh thể hiện một gương mặt khác của sông Hương: gương mặt kinh thành vừa kiêu sa, vừa tài hoa lại duyên dáng, lịch lãm.

- Toàn bộ nền âm nhạc ấy trong cảm nhận của tác giả chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương giang “trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.

- Trong “Tì Bà hành”, Bạch Cư Dị đã từng viết:

“Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt

Một vầng trăng trong vắt lòng sông.”

Nguyễn Du cũng từng miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều:

“Trong như tiếng hạc bay qua

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.”

- Dẫn ra câu chuyện về một người nghệ nhân già chơi hết nửa thế kỉ khi nghe người con gái đọc câu thơ trên nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: “Tứ đại cảnh” (một bản nhạc cổ Huế tương truyền do vua Tự Đức sáng tác), Hoàng Phủ Ngọc Tường  đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế.

⇒ Đây chính là văn hóa Huế nói chung và cả vẻ đẹp của sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì dòng sông nào.

2.2.2. Thi ca

- Với vẻ đẹp độc đáo và đa dạng, lại không bao giờ tự lặp lại mình, sông Hương luôn có vẻ đẹp mới, có khả năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn, nhà thơ.

- “Có một dòng thi ca” – luôn khơi cảm hứng trữ tình dào dạt trong lòng thi nhân nghệ sĩ.

  • Tản Đà thấy: “Dòng sông trắng – lá cây xanh”
  • Cao Bá Quát thấy sự hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” – một khí phách CBQ – con người luôn ôm trí lớn.
  • Bà Huyện Thanh Quan với nỗi quan hài vạn cổ thấm đượm nỗi buồn.
  • Tố Hữu: là sức mạnh phục sinh tâm hồn, gợi lên chất thơ hài hòa.

⇒ Có thể thấy, quan sát, miêu tả sông Hương từ nhiều phương diện, Hoàng Phủ Ngọc Tường  đã làm nổi bật hình ảnh một dòng sông kết tinh đầy những nét đẹp của thiên nhiên tạo nên những cảnh non kì thú, đồng thời kết tinh bề dày văn hóa lịch sử thấm đẫm chiều sâu của tâm hồn Huế, trở thành một biểu tượng không thể thiếu của một vùng văn hóa xứ sở.

⇒ Hình tượng sông Hương còn bộc lộ những am hiểu sâu sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường  đối với quê hương và tình yêu tha thiết đối với vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước.

3. Lí giải về sông Hương

- Bài kí mở đầu bằng câu hỏi trăn trở: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhưng phải đến cuối cùng của bài kí nhà văn mới đưa ra câu trả lời cho nó.

- Có nhiều cách để trả lời câu hỏi ấy nhưng nhà văn đã cho mình một đáp án đầy chất trữ tình: “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nươc của trăm loài hoa đã xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi.”

- Tuy nhiên, nếu đọc kĩ ra sẽ thấy, thực ra câu hỏi ấy đã được trả lời ngay từ những dòng đầu tiên, và bổ sung, hoàn thiện cho đến dòng cuối cùng của bài kí. Nói cách khác, chính thiên nhiên hoang dại, trữ tình “đã đặt tên cho dòng sông”, chính lịch sử hào hùng và truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc Huế “đã đặt tên cho dòng sông”, và chính con người với tình yêu tha thiết của mình dành trọn cho con sông quê hương đã góp phần tạo nên tên tuổi của nó.

III. ĐÁNH GIÁ

1. Nội dung

- Bài kí ngợi ca vẻ đẹp sông Hương nói riêng, của thiên nhiên, con người Việt Nam nói chung, qua đó thể hiện niềm tự hào và tình yêu tha thiết với quê hương, đất nước của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

2. Nghệ thuật

- Khắc họa hình tượng nghệ thuật sông Hương với cái nhìn đa chiều và kiến thức uyên bác nhiều lĩnh vực.

- Kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và trữ tình; tất cả những thông tin phong phú về sống Hương đã được lọc qua trái tim tha thiết yêu thương của Hoàng Phủ Ngọc Tường để đến với độc giả.

- Lối hành văn tài hoa, mê đắm, gợi cảm với ngôn ngữ tinh tế, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, liệt kê với nhiều liên tưởng bất ngờ, thú vị.

D. Gợi ý kết bài

Mẫu số 1

Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo về sông Hương tới độc giả. Sông Hương qua bài kí không vô tri, vô giác mà nó tràn ngập cảm xúc, tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được tình yêu quê hương, xứ sở nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc Tường , một ký giả nặng lòng với Huế:

“Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên
Xa con sông mang bao nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ.”

Mẫu số 2

Sông Hương dường như đã một lần nữa được sinh ra trong tình yêu và sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường . Tôi bỗng nhớ câu nói của người triết gia phương Tây: “Mọi thứ trên đời đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ lớp bụi của mình lên vạn vật để làm mờ tất cả. Nhưng thời gian lại sợ những vĩ nhân bởi chỉ có các vĩ nhân là tồn tại vĩnh hằng.” Con sông Hương thơ mộng của Huế và đất nước Việt Nam, con sông Hương của văn học nghệ thuật trong bài kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường  sẽ trường tồn với thời gian, nhịp bước theo năm tháng.

E. Tư liệu liên hệ, mở rộng

1. “Ai ra xứ Huế thì ra,

Ai về bến Ngự, ai về là về sông Hương,..”

(Dân ca xứ Huế) 

2. “Hương Giang ơi! Dòng sông êm.

Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”

(Tố Hữu)

3. “Con sông dùng dằng, con sông không chảy. Sông chảy vào lòng Huế rất sâu.” (Thu Bồn)

4. “Ngày tuổi nhỏ tôi vẫn thường hỏi mạ

Sao nước dòng Hương lại xanh ngát màu mơ

Mạ ôm tôi vào lòng vuốt mái tóc lơ thơ

Nước sông Hương xanh vì chảy qua tim của Huế”

(Giang Hồng)

5. “Ơi con sông ôm bóng những hàng dừa

Chào đất nước đang ngày ghi thêm trang sử

Một đường rộng giờ đây ta đi tới

Một ngày vui sẽ về chẳng còn xa

Như quê mẹ giữa mùa thu tháng tam

Huế reo mừng chờ đón rợp sông Hương”.

(Tiếng hát gửi sông Hương)

6. “Anh là một nhà văn hóa hành văn vô cùng độc đáo, một cuốn từ điển sống về Huế, và đôi khi như một triết gia thâm uyên lãng tử” (Nguyễn Trọng Tạo)

7. “Lần giở từng trang viết của anh, theo sau những bước lãng du, những phút nhàn đàm, hay đồng điệu với những vần thơ mang tính chất tự bạch với thiên nhiên”. (Lê Thị Hường)

8.Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa” (Nguyễn Tuân)

9. “Đối với anh Tường, chẳng việc gì phải giới thiệu. Tên tuổi anh, người đọc cả nước đều biết rõ, độc giả ngoài nước cũng nhiều người biết và hâm mộ. Anh là một trong số mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. (Nguyên Ngọc)

10. “Đất nước có nhiều dòng sông, nhưng chỉ có một dòng sông để thương để nhớ, như cuộc đời có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mang theo”. (Khuyết danh)

11. “Ôi dòng sông Đời Người, ôi con sông Huế, nó đã chở đầy phận người từ thuở từng giọt địa chất sinh ra.” (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

12. “Chảy suốt đời văn và đời người của Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ là dòng sông Hương, mà nếu không có những trang văn của ông, nó đã không long lanh đến thế trong lòng bao nhiêu người đọc, dù đến hay chưa đến Huế.” (Lê Đức Dục)

  • 25 lượt xem
Sắp xếp theo