Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân

“chất vàng mười đã qua thử lửa nơi núi rừng Tây Bắc”

A. Hệ thống luận điểm chính

B. Gợi ý mở bài

Mẫu số 1

Một nhà phê bình đã từng nói: “Người nghệ sĩ phải xâm nhập sâu vào đời sống nhân dân.” Cả một cuộc đời cần mẫn như con ong hút mật từ những nhuỵ hoa hiện thực cuộc sống, Nguyễn Tuân đã để lại cho văn chương Việt Nam một sự nghiệp đồ sộ. Một trong những tác phẩm để lại dấu ấn sâu đậm, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám đó là tập tùy bút “Sông Đà”. Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm là việc xây dựng hình tượng con Sông Đà chân thực, sống động và khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp con người lao động mới.

Mẫu số 2

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu”

                                                   (Chế Lan Viên)

Vào những năm 1958 - 1960, khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật. Chúng ta biết đến Tô Hoài với tập truyện Tây Bắc tiêu biểu là “Vợ chồng A Phủ” , Nguyễn Khải xôn xao lòng mình với “Mùa lạc” và Nguyễn Tuân thăng hoa trên mảnh đất này với tập tùy bút “Sông Đà” mà linh hồn là tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”.

Mẫu số 3

“Ôi những dòng sông bắc nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát.”
                                                                  (Nguyễn Khoa Điềm)

Những dòng sông yêu thương của đất nước Việt Nam đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Dường như mỗi nhà văn, nhà thơ lại có riêng cho mình một dòng sông để thương, để nhớ. Nếu Hoàng Cầm tha thiết với sông Đuống thân thương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đắm đuối sông Hương kiều diễm, thì Nguyễn Tuân say đắm Sông Đà với vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình. Với niềm say mê đắm đuối cùng vốn tri thức tài hoa, Nguyễn Tuân đã tạo lên những trang văn độc đáo trong “Người lái đò Sông Đà”.

C. Phân tích chi tiết

I. Khái quát 

1. Tác giả (1910 - 1987)

a. Hành trình sáng tác

- Trước CMT8: sáng tác của Nguyễn Tuân chủ yêu xoay quanh ba chủ đề "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời" và đời sống trụy lạc.

- Sau CMT8: Nguyễn Tuân hăng hái đi thực tế, dùng ngòi bút để ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu và lao động sản xuất. Hình tượng chính trong sáng tác của ông là nhân dân lao động và chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, những con người bình thường mà vĩ đại. 

b. Phong cách nghệ thuật

- Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn theo đuổi phương châm "nghệ thuật vị nghệ thuật", ông dành cả đời mình để sáng tạo ra những tác phẩm mang tính duy mĩ và hoàn thiện. 

- Đọc văn ông, người đọc không chỉ có khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngôn từ mà còn được bồi dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh ... (có sự am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực)

- Với sở trường là tùy bút, ông là bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Tố Hữu đã tôn vinh ông là “người thợ kim hoàn” của chữ. 

2. Tác phẩm 

- Khác với những người nghệ sĩ cùng thời, đến với Tây Bắc mảnh đất trước Cách mạng ông từng đặt chân, ông ào đến “như nai về suối cũ”. Đến với trang văn Nguyễn Tuân, ta bắt gặp thiên nhiên Tây Bắc diễm lệ bởi nơi ấy có thung lũng lúa chín vàng, có đá chìm đá nổi, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ .... Nhưng chỉ đến khi bắt gặp được Sông Đà mới thấy hết được cái thần thái của núi sông hùng vĩ, diễm lệ.

⇒ Vì vậy, ông say sưa viết về con Sông Đà và đã cho ra đời tuỳ bút “Sông Đà”. Linh hồn của tùy bút ấy chính là “Người lái đò sông Đà”. Đó là kết quả của chuyến thực tế hào hứng không chỉ để thỏa mãn cơn đói của thú xê dịch mà chủ yếu là để tìm chất vàng mười đã qua thử lửa của con người lao động và chiến đấu Tây Bắc.

⇒ Có thể nói Sông Đà đẹp hơn cả, trở về đúng với bản tính của mình chỉ đến khi gặp được ngồi bút của ông Nguyễn. Đà Giang thực sự trở thành một nhân vật, trở thành một hình thể, một cơ thể sống và Nguyễn Tuân xứng đáng là một bậc thầy ngôn ngữ, xứng đáng được văn giới cùng thời mệnh danh là "người chẻ sợi tóc làm tư".

II. Phân tích

1. Lời đề từ

Khái niệm

- Lời đề từ có thể do tác giả sáng tạo ra cũng có thể tác giả vay mượn từ câu nói, lời thơ của một tác giả khác.

Ví dụ

- Trong thi phẩm nổi tiếng “Tràng giang”, Huy Cận có lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.”

- Hay câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu để quét sạch nó đi” được nhà văn Nguyễn Minh Châu làm lời đề từ cho tác phẩm “Dấu chân người lính”

Chức năng

- Bổ sung và làm rõ tác phẩm, đề dẫn và dự báo nội dung tư tưởng tác phẩm, “chứa đựng cái hồn, cái thần thái của tác phẩm văn học”.

- Đối với chủ thể sáng tạo, lời đề từ không những khơi nguồn cảm hứng mà còn thể hiện cảm xúc, phong cách nghệ thuật và chuyển tải ý đồ đến độc giả.

- "Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà Giang độc bắc lưu": Khi tất cả dòng sông đều chảy về hướng đông, riêng sông Đà chảy về hướng bắc.

⇒ Gợi lên cá tính độc đáo, ngông ngược và đầy hung bạo của Sông Đà.

⇒ Cái ngông của Sông Đà thật trùng hợp gặp cái ngông của Nguyễn Tuân. Từ đó, ông đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông, không chỉ tập trung ở thác dữ, luồng chết, vực xoáy mà còn ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng Tây Bắc.

- “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: Nguyễn Tuân mượn câu thơ của nhà thơ Ba Lan mang cấu trúc của một câu cảm thán nhằm bộc lộ niềm cảm xúc dâng trào, mãnh liệt.

⇒ Tiếng hát trên dòng sông phải chăng là tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo thuyền, tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bắc thiết tha với thiên nhiên, đất nước, lạc quan, yêu đời. Người lái đò Sông Đà là một trong hai hình tượng trung tâm của thiên tùy bút.

2. Hình tượng sông Đà

2.1. Sông Đà hung bạo, dữ dội

a. Cảnh đá bờ sông

- Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi sự hùng vĩ của Sông Đà chính là cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, “mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời”

  • Hình ảnh “đá dựng vách thành” đã thể hiện sự thâm nghiêm, vững chãi và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của Sông Đà. (bpnt) Sự so sánh và liên tưởng độc đáo khiến con Sông Đà như hiện ra trước mắt người đọc, như thành quách sừng sững, đứng án ngữ ngày trước du khách đặt chân đến.
  • Chi tiết “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” cho thấy khả năng quan sát tinh tế và chính xác của tác giả. Lúc đúng giữa trưa, khi mặt trời chiếu vuông góc vào trái đất và chỉ lúc đó mặt sông chỗ ấy mới có mặt trời. Chi tiết đã đặc tả một cách chân thực độ cao của vách đá.

⁃ “Vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”. Có quãng “con nai con hổ đã có lần vọt từ bên này sang bờ kia.”

  • Tác giả sử dụng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại chân thực, sinh động, có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá.
  • Tài hoa của nhà văn còn hiện ra trong cách so sánh “vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.” Động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh “như cái yết hầu” đã đem lại ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở.

⁃ Nghệ thuật miêu tả sự vật thông qua cảm giác được thể hiện độc đáo với chi tiết “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè cũng thấy lạnh", tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối, lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền ngoặt vào khúc sông đá hun hút dựng vách thành: “Cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.”

⇒ Một câu văn tràn dòng với những liên tưởng, tưởng tượng độc đáo cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

b. Quãng mặt ghềnh Hát Lóong

⁃ Nhịp văn ngắn, ngắt nhanh, dồn dập, các thanh sắc, những hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ nhau trong đoạn văn: "Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió, gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua quãng ấy."

⇒ Tất cả đã góp phần tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà.

⁃ Điệp từ "xô" lặp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng mạnh về những chuyển động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác.

⇒ Kết cấu ngôn từ đặc sắc như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn trùm lên nhau rồi vút lên cao lại đổ ập xuống, trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.

⁃ Từ láy "gùn ghè" và hình ảnh sóng gió trên mặt ghềnh như “đòi nợ xuýt” đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người.

⇒ Đó là sự kết hợp ngẫu nhiên hay có sự lựa chọn giữa tên địa danh vưới đặc điểm sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết rằng, khi ông Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Loóng. Đọc tên địa danh mà phải nén hơi, uốn lưỡi như chính mình vừa phải đi qua nơi sóng gió dữ dội, ghê rợn ấy.

c. Hút nước quãng Tà Mường Vát

- Hút nước được so sánh với những hình ảnh thú vị: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, giống như “cái giếng bê tông thả xuống lòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.” Những cái giếng sâu nước “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa góp phần làm hiện ra cả hình ảnh, âm thanh của hút nước như một con quái vật giận dữ ghê người.

- Hình ảnh liên tưởng đến “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” đã giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ. Có những cái thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.

- Không dừng lại trong những hình dung về cái bè gỗ hay con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo độc giả xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn: “Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre – plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khôi pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả máy cả người quay phim cả người đang xem.” Người đọc cảm nhận được sự khiếp hãi khi ngồi trên thuyền, ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn.

⇒ Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn Tuân mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà và trên trang viết của Nguyễn Tuân.

d. Thác nước sông Đà

- Nguyễn Tuân đã chọn miêu tả từ xa đến gần với cảm quan âm thanh rõ nét:

  • “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã nghe thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên.” Câu văn trùng điệp, tăng tiến cùng biện pháp điệp cấu trúc gợi cảm giác tiếng âm thanh ngày một lớn hơn.
  • Âm thanh tiếng nước như thể hiện được tâm trạng của thác nước sông Đà: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.” Dường như nó vừa giận dữ lại vừa chế nhạo, thách thức con người vào giao chiến. Âm thanh tiếng nước như tiếng nói của một sinh thể, làm sông Đà hiện lên như một sinh mệnh có tính cách, linh hồn – một thứ kẻ thù hung bạo và đầy nguy hiểm với con người.
  • Khi lại gần, tiếng thác sông Đà trở thành ấn tượng khủng khiếp: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Bằng nghê thuật so sánh, liên tưởng kết hợp với những động từ, tính từ mạnh, âm thanh thác nước hiện lên không khác gì âm thanh của “một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử” (Đỗ Kim Hồi)
  • Miêu tả tiếng nước như tiếng “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng lửa” là một liên tưởng táo bạo cho thấy âm thanh dữ dội, cuồng nộ, khốc liệt. Đó là âm thanh của một cuộc hỗn chiến với những con mãnh thú đang gầm thét, bị bao vây, dấy lên những tiếng phẫn nộ đến tuyệt vọng.
  • Hình ảnh ngọn lửa “cháy bùng bùng” là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn âm thanh dữ dội của thác đá. Đồng thời hình ảnh ngọn lửa bao giờ cũng gắn với những cuộc chiến khốc liệt, như dự báo trước trận giao chiến nảy lửa giữa con người với thác nước sông Đà.

⇒ Lần đầu tiên trong thơ văn ta bắt gặp người nghệ sĩ lấy lửa để tả nước – hai nguyên tố có sức hủy diệt lớn lại luôn tương khắc với nhau. Hình ảnh ấy tác động mạnh mẽ đến người đọc, mang đến cảm giác vô cùng chân thực, sống động.

d. Trùng vi thạch trận

- Sau những âm thanh khủng khiếp và cuồng nộ, thác đá sông Đà hiện lên choáng ngợp. Chân dung những hòn đá ở thạch trận trên sông được khắc họa bằng chi tiết hết sức sống động, tinh tế, hấp dẫn. Nhà văn đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để thổi hồn vào những hòn đá làm chúng hiện lên như những sinh mệnh có tính cách, suy nghĩ, hành động như con người.

  • Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “cả một chân trời đá”. Chân dung những hòn đá hiện lên với những gương mặt đầy cá tính: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.” Trong khi đó, mặt sông phô ra diện mạo đầy đe dọa: “rung rít lên như tuếch – bin thủy điện nơi đáy hầm đập.”
  • Những hòn đá vừa có diện mạo chung, vừa có bộ mặt riêng, hòn “bệ vệ oai phong lẫm liệt”, hòn “hất hàm” kiêu ngạo. Tất cả đều như một đội quân thiện chiến, ngỗ ngược, xấc xược, hiếu thắng.
  • Những hòn đá hiện lên có tính cách, suy nghĩ và cả hành động, chúng bày binh bố trận như để chuẩn bị tiêu diệt con người. “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.” Cách nhân hóa, lối quan sát tỉ mỉ, lựa chọn từ ngữ tinh tế với các từ trong cùng một trường từ vựng “mai phục”, “nhổm dậy”, “vồ” khiến đá sông Đà như thành một bày thạch tinh hung hãn trên sông Đà đã chầu chực, rình rập sẵn chỉ cần có cơ hội là lao vào con mồi.

⇒ Có thể thấy, đá ở đây đông đảo, hùng hậu lại nham hiểm, hiếu chiến. Chúng được tổ chức thành trận địa chặt chẽ với ba vòng vây. Ở đây, sông Đà giống như một tổng tư lệnh đang điều binh, khiển tướng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.

- Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Trận chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ dàng.

- Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!

- Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.

⇒ Cuộc chiến kết thúc, dòng sông đột ngột hiện lên bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ.” Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt trắng xóa của dòng thác rơi từ trên cao và khi chạm đến cái đích cuối cùng là dòng sông thì vỡ ra, tạo âm thanh “xèo xèo tan…” Nó có thể tan trong trí nhớ người lái đò bởi “cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước sông Đà dữ dội”, ngày nào cũng biết đến cảm giác “xèo xèo tan” của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in vào tâm trí người đọc sâu đậm. Dòng thác đổ qua miền nhớ và để lại những nét chạm khắc không thể nào quên.

⇒ Đoạn văn đã làm hiện lên cảnh đá sông Đà đang giăng bẫy trận địa đòi đánh người lái đò. Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:

“Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.”

⇒ Tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn gồm nhiều thanh trắc với hơn 300 động từ mạnh cùng kết cấu trùng điệp miêu tả sự gấp gáp, khẩn trương của nước, đá, sóng, gió. Tất cả như đã minh chứng cho lời nhận định của Phan Huy Đông: “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ.”

2.2. Sông Đà thơ mộng, trữ tình

a. Hình dáng sông Đà

- Nguyễn Tuân đã chọn điểm nhìn từ trên cao xuống để phát hiện ra vẻ đẹp toàn diện của con sông thơ mộng, mềm mại.

- Từ trên cao, tác giả nhìn thấy con sông Đà dài như một “sợi dây thừng ngoằn ngoèo” dưới chân mình mà không ai nghĩ đó là con sông “hàng năm đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc.” Nó biết uốn lượn qua các dãy núi, triền đồi, các ghềnh thác để làm mình trở nên dịu dàng, nữ tính.

- Ở điểm nhìn ấy, tác giả còn hình dung con sông Đà giống như áng tóc người con gái: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”

  • Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô cùng, vô tận của dòng sông, mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng.
  • Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc sự suýt xoa trươc vẻ đẹp diễm lệ của sông Đà – sông Đà như một kiệt tác của trời đất.
  • Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được ông Nguyễn gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Cảnh vì thế mà vừa thực lại vừa mộng.
  • Hình ảnh hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ kết hợp với động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” càng tô đậm thêm sự duyên dáng Đà giang. Chúng giống như những chiếc châm cài xinh xắn cài lên mái tóc mượt mà càng thêm quyến rũ, phảng phất vị Đường thi.

⇒ Hình ảnh được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn kết hợp với việc vận dụng thủ pháp sắp đặt trong hội họa, làm hình dáng con sông hiện lên đầy sinh động và gợi cảm.

b. Màu sắc sông Đà

- Mùa xuân: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô.” Nguyễn Tuân tả sắc xanh của nước sông Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc xanh trong vắt như pha lê, ngọc thạch mà mắt người có thể nhìn thấu đáy. Để thấy được sắc xanh như màu xanh của sông Đà là hiếm và khác biệt với nhiều dòng sông khác Nguyễn Tuân đã so sánh màu sắc của nước sông Đà với màu nước của sông Gâm, sông Lô là màu xanh đục lờ lờ canh hến.

- Mùa thu: Mùa thu nước Sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Sắc nước mùa thu của sông Đà tựu thân nó không thể coi là đẹp nhưng cái đẹp đáng nói ở đây chính bởi sự làm duyên của con sông. Mùa thu nước sông Đà dần thay màu, nó lừ lừ và rồi chín đỏ như mặt người đang tím bầm vì rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, đang bực bội mỗi độ thu về. Xanh trong, dịu dàng là thế vào mùa xuân mà lại chuyển ngay sang sắc tím đỏ giận dỗi vào mùa thu

- Có khi nhà văn cảm nhận sông Đà mang màu nắng tháng ba Đường Thi trong câu thơ “Yên Hoa tam nguyệt há Dương Châu.” Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng”, Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc, gợi tả một vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên, thanh bình.

- Nguyễn Tuân phản đối kịch liệt cách gọi sông Đà đen “như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra, đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế phết vào bản đồ lai chữ.”

⇒ Cách miêu tả này cho thấy khả năng quan sát tinh tế, độc đáo, chính xác của Nguyễn Tuân. Mỗi mùa sông Đà một màu, mang vẻ đẹp riêng không giống bất cứ dòng sông nào. 

c. Sông Đà ‘cố nhân”

- Hoàn cảnh xuất hiện: Đối với mỗi người, sông Đà lại gợi cảm một cách khác. Đối với ông Nguyễn, sông Đà như một cố nhân. “Chao ôi! Trông con sông vui như thấy cái nắng giòn tan sau kì mưa dầm. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Một cảm giác đằm thắm, âm ấm như gặp lại cố nhân.”

  • Nhà văn đã diễn tả những cảm xúc tinh tế của mình bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác.
  • Ông đã cho thấy tình cảm, cảm xúc của mình đối với con sông miền Tây Tổ quốc, không chỉ đơn thuần là xúc cảm của một con người với dòng sông mà còn là xúc cảm của “cố nhân” sau bao ngày xa cách. Đó là niềm vui của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao ngày đợi chờ.
  • Cảm nhận sông Đà như một cố nhân đã cho thấy sự hiền hòa, êm dịu trong tính cách của nó.
  • Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa khiến cho dòng sông hiện ra như một người bạn cũ nghĩa tình, đằm thắm; vừa đưa đến cho dòng sông một chút cổ kính của Đường thi.

⇒ Sông Đà với Nguyễn như một “cố nhân”, nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Ấy thế mà khi được gặp lại cố nhân lại trào dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải chăng bởi con sông kia quá gợi cảm và quyến rũ. Nét quyến rũ của một “người tình nhân chưa quen biết”.

d. Cảnh hai bên bờ sông

- Cảnh vật ven sông trước hết tỏa ra cái đẹp êm ả, tĩnh lặng, hoang sơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.” Câu văn nghe êm trải, mênh mang. Mênh mang như chính những gợn sóng trên sông Đà.

- Con sông “tịch không một bóng người” ấy bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại mà nó trôi ngược về quá khứ bởi chính người ngắm nó cũng đang chìm trong hoài niệm, cảm xúc lội ngược về với lịch sử dân tộc.

- Vẻ đẹp đó còn được tác giả cực tả qua hình ảnh so sánh độc đáo, giàu ý nghĩa: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” – nhìn cảnh hiện tại mà liên tưởng về quá khứ, đem cái vô hình trừu tượng để so sánh với cái hữu hình là kiểu tư duy mang đậm phong cách ông Nguyễn.

⇒ Hình ảnh so sánh đã tô đậm ấn tượng về một bờ sông Đà hoang dại, nguyên sơ toát lên vẻ đẹp thiên nhiên như tự thuở hồng hoang, không chỉ thế còn gợi lên những cảm xúc trong trẻo, vừa bí ẩn lại vừa gần gũi, thân thuộc.

- Cảnh ven sông còn tỏa ra vẻ đẹp ngập tràn sức sống: “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm.”

⇒ Bức tranh ven bờ được vẽ lên bằng hàng loạt những hình ảnh ngô non mới nhú, búp cỏ, con hươu, … đều là những hình ảnh gợi sự sinh sôi, nảy nở, sự phát triển không ngừng của vạn vật tỏa ra sức sống ngập tràn, những hình ảnh này đã làm cho bức tranh hoang sơ, vắng lặng nhưng không trống trải, hoang dại nhưng không lạnh lẽo mà ngược lại làm cho lòng người thêm ấm áp, tươi vui. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống. Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”.

- Ở sông Đà còn là cái đẹp của sự giàu có đầy hứa hẹn:

  • Điểm xuyết vào cái trong trẻo, hoang sơ là những thanh âm của “cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, vọt lên mặt ông bụng trắng như bạc rơi thoi”, “tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”.
  • Thanh âm hiện tại đồng hiện với những thanh âm từ phía tương lai mà người nghệ sĩ lắng nghe được từ trong tâm tưởng: “Chao ôi, thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. Câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). "Thèm giật mình” bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. 

⇒ Tiếng cá quẫy và tiếng còi đó vừa tô đậm sự giàu đẹp của sông Đà trong hiện tại vừa hé mở niềm tin tưởng về một Tây Bắc giàu đẹp và phát triển trong tương lai, hòa nhịp chung cùng không khí của cả đất nước đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.  Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi nhà, thị trấn sẽ mọc lên, khắp nơi đầy ắp tiếng cười.

- Và rồi, Nguyễn Tuân như có một mối giao cảm với loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Con vật hỏi người hay chính người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình.

- Cảnh bên bờ sông còn hiện lên với vẻ đẹp trữ tình nên thơ và hòa hợp với con người. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.

⇒ Sông Đà toát lên vẻ đẹp ngọt ngào đầy lưu luyến, nhớ thương và hòa mình vào cuộc sống con người.

3. Hình tượng người lái đò

3.1. Khái quát 

⁃ Nhà văn đã xoá mờ gần hết những nét riêng biệt của chân dung ông lái đò. Ông đò không tên, không tiểu sử, điều này không phải ngẫu nhiên mà chúng ta từng gặp trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long): anh thanh niên, cô kĩ sư, bác lái xe, ông hoạ sĩ, ... Đó chính là chân dung những con người vô danh lẫn vào đám đông nhưng chính những con người bình dị ấy lại chứa đựng “chất vàng mười” đích thực của tâm hồn và tài năng:

“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
(Nguyễn Khoa Điềm)

⁃ Nguyễn Tuân chỉ khắc hoạ vài nét về ngoại hình, chân dung ông đò đã hiện ra rất ấn tượng:

  • Tay dài lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kép lấy cái cuống lái tưởng tượng. 
  • Người cao to gọn quánh như chất sừng, chất mun. Nếu bịt cái đầu bạc hói đi người ta cứ ngỡ tưởng đó là một chàng trai. Nhỡn giới vời vợi, giọng ào ào như tiếng trước mặt ghềnh.

⇒ Những so sánh, liên tưởng đó cho ta thấy vẻ đẹp tráng kiện, dũng mãnh, khoẻ khoắn mang bóng đang của những con người phi thường, khác thường, người anh hùng Đà giang.

3.2. Vẻ đẹp tài hoa, trí dũng

* Nghề nghiệp

- Ông lái đò bình dị nhỏ bé, khiêm nhường nhưng hiện lên trang văn của Nguyễn Tuân là một con người thạo nghề sông nước nay xuôi mai ngược, nay đề thác lũ, mai cưỡi bờm sóng mà đi. Ông thạo nghề đến mức nếu ví sông Đà là một thiên anh hùng ca thì ông thuộc cả những chỗ chấm câu, chấm than hay xuống dòng.

- Bờ vai ông nỗi lên những “củ nâu” dấu vết, chứng tích của những ngày chèo đò vượt thác. Những “củ nâu” ấy chính là huân chương lao động siêu hạng mà Nguyễn Tuân ưu ái sáng tạo ra để dành tặng cho người lái đò.

⇒ Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò sông Đà được mô tả như một người lao động trí dũng song toàn, một nghệ sĩ tài hoa.

⇒ Mở rộng: người xưa quan niệm cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông là những biểu hiện hành động phi thường của người anh hùng thì ở đây người lái đò được nhà văn khắc hoạ chính là con người cưỡi đầu gió mạnh, đạp đầu sóng dữ.

* Phẩm chất, tài năng: ông đò xuất hiện với vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ, vừa mang nét đẹp của con người lao động bình dị, đời thường.

- Bối cảnh ông đò xuất hiện: Nguyễn Tuân đã có ý thức tạo dựng một nền thiên nhiên kì vĩ, một không gian lớn lao xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. (Lấy dẫn chứng phần hình tượng sông Đà dữ dội, hung bạo)

⇒ Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông Đà chính là những tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng, tài hoa mà giản dị, đời thường

- Vẻ đẹp trí dũng của tay lái “ra hoa” (lấy dẫn chứng ba vòng cửa ải, thạch trận trên sông)

3.3. Vẻ đẹp bình dị, đời thường

- Khi vượt qua gian nguy, "sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, ... Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến vừa qua."

⇒ Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung bạo. Song qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹo của người lái đò.

- Đối với ông đò cũng như những người lái đò bình dị kia, vượt qua ngọn thác không còn là một điều quá đặc biệt, không phải là chiến thắng bời vì "khi chưa vượt thác" ông đã "biết trước sẽ vượt qua nó an toàn". Đó chính là tính cách đặc biệt của người lái đò.

- Và chính vì "cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu" với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác nên cảm giác chiến thắng không còn hồi hộp, đáng nhớ.

⇒ Cái phi thường đã trở nên bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hoà quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. Phải chăng người lái đò anh hùng ai cũng có thể thấy, còn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân?

3.4. Đánh giá 

- Ông đò như một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh - một thứ nghệ thuật độc đáo, siêu phẩm nhưng hết sức nguy hiểm. Ông đò chính là minh chứng cho câu "đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học) và “con người chỉ có thể bị hủy diệt chứ không thể bị đánh bại” (Hê – minh – uê)

- Ông đò tiêu biểu cho những vẻ đẹp phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

III. Đánh giá 

1. Nội dung

- Đoạn trích là bức tranh toàn cảnh hùng vũ, dữ dội mà nên thơ, nên mộng, rất đỗi trữ tình và hiền hòa về dòng sông Đà và thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Đồng thời, tác phẩm cũng tạc được bức tượng về những con người Tây Bắc yêu lao động, yêu quê hương, đất nước: đặc biêt là người lái đò trí dũng, tài hoa nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác ghềnh.

2. Nghệ thuật

- Hình tượng con sông Đà:

+ Miêu tả tính cách hung bạo của nó, nhà văn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, xây dựng nhiều hình ảnh thị giác, thính giác, hệ thống từ láy gợi hình,...

+ Miêu tả tính cách trữ tình của dòng sông bằng những hình ảnh mềm mại, uyển chuyển, mang màu sắc hoài cổ,.. Ngôn ngữ mềm mại, nhẹ nhàng hơn, giọng điệu tha thiết, đượm bâng khuâng, xao xuyến và say đắm.

- Hình tượng người lái đò:

+ Sử dụng thủ pháp tương phản giữa tính cách hung bạo của con sông Đà với tài trí, nghệ thuật vượt thác ghềnh của ông lái đò.

+ Đồng thời, tác giả cũng phát huy năng lực tưởng tượng, quan sát, liên tưởng so sánh để tạo hình ảnh chính xác và sắc sảo/

- Vận dụng linh hoạt tri thức về quân sự (thạch trận, cửa tử cửa sinh, quật vu hồi,...); võ thuật (thúc gối, đá trái, đòn âm,...); địa lí (màu nước sông Đà, tên gọi,...); bóng đá (hàng tiền vệ, hậu vệ,...); văn chương (thơ Đường, đồng dao,...);

D. Gợi ý kết bài

Mẫu số 1

Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi Nguyễn Tuân về cõi vĩnh hằng, và có lẽ con người “suốt đời đi tìm cái đẹp” ấy không còn phải băn khoăn, hối tiếc điều gì nữa. Bởi những gì ông đã cống hiến cho nền văn học hiện đại là không ai có thể thay thế được. Đọc tùy bút “Người lái đò sông Đà” của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng; một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”

Mẫu số 2

“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường tới xứ sở của cái đẹp.” (Pautopxki) Với tùy bút “Người lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối diệu kì giữa cái đẹp ngôn từ và ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh, dẫn dắt người đọc đến với vẻ đẹp hung bạo mà trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và uyên bác. Đó là chân trời của cái đẹp, tài hoa.

E. Tư liệu liên hệ, mở rộng

1. "Ông là một trong mấy nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Đình Thi) 

2. "Ngày trước, khi con sông Đà chưa bị ngăn dòng làm thủy điện, nó như con ngựa bất kham, nước chảy sôi ùng ục qua trùng lớp ghềnh thác... Vào đầu những năm 70 thế kỉ trước, mùa lũ nào cũng vậy, dòng sông Đà cuồn cuộn sóng nước, cơ man vũng xoáy nên nuốt chửng đến vài chục mạng người xấu số. Có xác mắc kẹt ở chỗ nông thì người ta còn tìm vớt được, nếu mắc kẹt ở vách đá, hang hốc dưới lòng sông thì chịu..." (Ông Ngô Văn Tám - làng chài Tân Thịnh, Hòa Bình) 

3. "Tôi đi với sông Đà
Bao lần rồi vẫn lạ
Tôi thuộc ngầm thuộc đá
Tôi thuộc lũ, thuộc dòng'.
(Với sông Đà - Vũ Quần Phương)

4. "Đọc Người lái đò sông Đà, chúng ta hiểu rất rõ về sự tự do của người tài hoa, sáng tạo trong một tác phẩm với một loạt nghệ thuật ngôn từ được sử dụng. Có lúc căng thẳng, có lúc mềm mại, có lúc nghiêm nghị, có lúc hồn nhiên như trẻ thơ, trang văn, câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm áp của cuộc sống vốn phức tạp, phong phú và đa dạng. Lòng tự trọng sâu sắc về tài năng của bản thân không phải là một biểu hiện tiêu cực mà ngược lại, nó giải phóng nguồn năng lượng rất cần thiết để nhà văn sáng tạo nên những tác phẩm lớn." (Phan Huy Đông)

5. “… Nguyễn Tuân – nhà văn luôn khao khát những cảm xúc mới, nồng nàn, say đắm…” Nguyễn Tuân tạo ra sông Đà không phải là vô tri, vô giác, mà là một bản thể có hành động, cá tính, tính cách và cảm xúc hẳn hoi và phức tạp. Nó có hai dòng tương phản, như tác giả nói – “dữ dội và trữ tình…”

6. “Có lúc trang nghiêm và cổ kính, có lúc vui tươi, có lúc thoáng đãng du dương, có lúc xô bồ như kẻ say, nhưng luôn rất tài hoa.” (Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)

7. Đó là tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. “Nó nói rằng cây bút đã đạt đến một sự trưởng thành mới về tư tưởng và nghệ thuật.” (Nguyễn Đăng Mạnh)

8. “Có khi nó cổ kính, có khi nó đùa giỡn trong phòng, có khi nó tối tăm, có khi nó bối rối, như say rượu bỏ đi, nó đáng khinh, nhưng bao giờ cũng rất tài hoa” (Nguyễn Đăng Mạnh)

9. Chỉ những ai thích suy tư, đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không nên là một đề tài để người nông nổi có thể thưởng thức. (Vũ Ngọc Phan)

10. “Tôi biết rằng cái ngôn ngữ thừa tự tôi đang nói đang diễn viết ra đây, chính nó là kết tinh bởi nhiều trăm nghìn năm công sức lao động của tổ tiên lưu truyền lại. Trong
hƣơng hỏa thừa hưởng đây, lẫn vào với vô số thanh âm từ điệu, thấy như hiển hiện lên không biết bao nhiêu là mồ hôi và máu huyết của đời đời ông bà khai rừng, vỡ ruộng, mở cõi, giữ nước, chống giặc, tiến lên tới đâu là xây dựng ngôn ngữ tới đó” (Tr.4 -Dương Phong, Nguyễn Tuân – Tuyển tập, NXB Văn học, Hà Nội, 2012).

11. "Một bài ký sự hay quả thật là một bài có đủ mọi đặc trưng của thể loại báo chí thuần tuý, nó hết sức cụ thể, có thể tái hiện được sự thật chân chính. Những nhân vật tạo nên phải là những con người có thật trong cuộc sống hiện thực, những sự việc mô tả phải dính chặt với địa điểm đúng như người ta thường nói: Ký sự có địa chỉ chính xác của nó" (Pô-lê-vôi)

12. "Những trang ký của Nguyễn Tuân chứng tỏ anh là một nhà văn từng trải, lịch lãm, một cây bút thích la cà, tọc mạch, một con người tỉ mỉ, kĩ tính, đã nghiên cứu cái gì thì tìm hiểu đến từng chi tiết, con số" (Phan Cự Đệ)

  • 34 lượt xem
Sắp xếp theo