Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu

“Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của dân tộc, sau này ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày càng tốt đẹp, chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài.”

A. Hệ thống luận điểm chính

B. Gợi ý mở bài

Mẫu số 1

Trong dòng chảy của văn học hiện đại, Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là nhà văn thuộc thế hệ sau năm 1954. Ông vào nghề khá muộn nhưng đã khẳng định được vị trí tiêu biểu của mình. Nguyễn Minh Châu đã tạo cho mình một vị trí không thể thay thế trong giai đoạn quá độ của văn học trước và sau 1975, trở thành một trong số những nhà văn tiêu biểu đặt nền móng cho sự đổi mới. Ông xứng đáng là người mở đường tinh anh và xuất sắc nhất cho văn học Cách mạng Việt Nam thời kỳ hậu chiến. Một trong số các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn trong giai đoạn sau 1975 phải kể đến “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Mẫu số 2

Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.

Mẫu số 3

Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ cách nhìn về cuộc đời của mình qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ cách nhìn về cuộc đời của mình qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Cách đặt tên tác phẩm, tên nhân vật và xây dựng hình tượng trong truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của ông là một ví dụ. Và có lẽ hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của ông cũng như vậy.

C. Phân tích chi tiết

I. KHÁI QUÁT CHUNG

1. Tác giả (1930 – 1989)

a. Cuộc đời

- Nguyễn Minh Châu sinh ngày 30/10/1930 trong một gia đình nông dân ở Quỳnh Lưu (Nghệ An).

- Trước CMT8 ông đã học xong bằng Thành chung.

- Năm 1950, Nguyễn Minh Châu gia nhập bộ đội và được kết nạp Đảng cũng trong năm này.

- Năm 1960, ông công tác tại phòng Văn nghệ Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

- Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn.

- Từ năm 1962 cho đến cuối đời Nguyễn Minh Châu làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội.

- Ông mất tại Hà Nội năm 1989 do một căn bệnh hiểm nghèo.

b. Sự nghiệp

Khái quát

- So với các nhà văn cùng thế hệ, Nguyễn Minh Châu đến với văn học khá muộn. Năm 1959, truyện ngắn đầu tiên “Sau một buổi tập” được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Và từ đó, Nguyễn Minh Châu đã từng bước khẳng định mình qua cuộc kháng chiến chống Mỹ và nhất là giai đoạn văn học sau 1975.

- Ông được xem là một trong những nhà văn có công đầu trong việc đổi mới văn học; là “người mở đường tài năng và tinh anh” (Nguyễn Khải)

Hành trình sáng tạo

(1) Đề tài chiến tranh: Là một nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu gắn bó cả nghiệp văn của mình với mảng đề tài cơ bản của nền văn học sau cách mạng. Ông dành hết tâm huyết để viết về những người lính với phẩm chất tâm hồn cao quý. Tiểu thuyết Cửa sông, Dấu chân người lính, truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng,… là những thành công lớn của Nguyễn Minh Châu trong những năm chống Mĩ.

(2) Đề tài nông dân:  Nguyễn Minh Châu là nhà văn gắn bó máu thịt với vùng quê xứ Nghệ của ông. Một trong những điều ông luôn ấp ủ là viết về “chất người nông dân”, đặc biệt là người dân xứ nghệ. Mơ ước của nhà văn là được viết một tác phẩm lớn về những con người ở quê hương mình. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu là những con người chất phác, gắn bó với đất, “tưới đến cạn kiệt mồ hôi và máu” cho mảnh đất của mình.  Những tác phẩm tiêu biểu là: Mảnh đất tình yêu, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra,..

(3) Đề tài đời tư, thế sự: Nguyễn Minh Châu đã nhận định về bức tranh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh: “Thời kì này diễn ra một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người." Hiện thực ấy là mảnh đất màu mỡ để ngòi bút Nguyễn Minh Châu khai phá. Một số truyện ngắn tiêu biểu là: Sắm vai, Bến quê, …

Quan điểm sáng tác:

- Viết văn là đi tìm hạt ngọc ẩn trong tâm hồn con người.

  • Trước 1975, Nguyễn Minh Châu đi tìm hạt ngọc ẩn đó trong những thử thách của chiến tranh.
  • Sau 1975, ông lại đi tìm và phát hiện cái đẹp qua những phức tạp, bề bộn của cuộc sống thường nhật, những vẻ đẹp lấm láp đời thường.

- Văn chương phải vì con người. Ông khẳng định và nhấn mạnh thiên chức của nhà văn: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc mơ cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đày đọa đến ê chề, hoàn toàn mất hết niềm tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.”

- Nguyễn Minh Châu quan niệm tính chân thật là yếu tố quan trọng của văn chương. Quan niệm đó nhất quán trong suốt hành trình sáng tạo của ông.

- Nghệ thuật và cuộc sống phải có mối liên hệ chặt chẽ. Theo ông, viết văn là “phải đào xới đến tận cùng cái đáy của cuộc đời”, người nghệ sĩ phải “vất bỏ thói quen mĩ lệ hóa hiện thực đời sống”, tránh “dễ dãi về cách nhìn và phô bày đời sống một cách đơn giản”.

2. Tác phẩm

- “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu ở chặng đường sau 1975, rút trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) sau đó được in lại trong tập “Chiếc thuyền ngoài xa” (1987)

- “Chiếc thuyền ngoài xa” là tác phẩm tiêu biểu về đề tài đời tư – thế sự của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Qua tác phẩm, người đọc thấy được những vấn đề phức tạp của đời sống, kể cả bi kịch số phận con người.

- Cốt truyện: Câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển vắng ở miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật. Người trưởng phòng yêu cầu anh có thêm một ảnh về buổi sáng có sương ở biển. Sau nững làn sương, ánh bình minh nơi biển cả là sự thật trần trụi về cuộc sống những người ngữ dân. Thông qua đó, nhà văn bộc lộ những suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống hiện thực.

II. PHÂN TÍCH 

1. Ngôi kể

- Truyện được trần thuật theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện là nhân vật Phùng – anh nghệ sĩ nhiếp ảnh, xưng “tôi” và kể về mình, kể về những gì mình đã chứng kiến.

- Nghệ thuật kể chuyện từ ngôi thứ nhất tạo độ chân thực cho câu chuyện, thuận lợi cho việc biểu hiện thế giới tâm hồn, những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật.

⇒ Nhân vật “tôi” trong tác phẩm chính là sự hóa thân của tác giả nhằm bộc lộ quan điểm nghệ thuật của mình.

2. Tình huống truyện

2.1. Tình huống được hé mở ngay trong nhan đề tác phẩm

- “Chiếc thuyền ngoài xa” là một nhan đề có ý nghĩa biểu tượng, khơi gợi suy tưởng, hé mở tình huống và góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm.

⇒ Đối tượng quan sát là “chiếc thuyền” và cự li quan sát là ở “ngoài xa”.

  • Chiếc thuyền xuất hiện trong truyện ngắn trước hết ở “ngoài xa”, đó là hình ảnh một cánh buồm nhòa mờ trong màn sương huyền ảo của buổi sớm mai trên mặt biển xa, vẻ đẹp hài hòa, toàn bích, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh khiến nghệ sĩ bàng hoàng xúc động trong cảm nhận: Cái Đẹp là đạo đức!
  • Nhưng khi chiếc thuyền tới gần, đó lại là sự hiện hữu một không gian sống đầy bi kịch của những người dân chài bị cầm tù bởi đói nghèo, tăm tối và bạo lực; một thực tế khiến nghệ sĩ kinh hoàng và phẫn nộ.

⇒ Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống ở những cự ly và góc độ quan sát khác nhau khiến nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa trở thành một biểu tượng khơi gợi những ý nghĩa, những thông điệp sâu sắc về cách nhìn cuộc sống, về trách nhiệm của người nghệ sĩ với nghệ thuật và con người.

2.2. Tình huống trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được tạo dựng bởi những phát hiện đầy nghịch lí

2.2.1. Phát hiện trên bờ biển.

a. Phát hiện thứ nhất: Phát hiện ra cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh

- Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh cảnh biển buổi sáng có sương, một tấm ảnh không có con người. Suốt một tuần kiên nhẫn trên một vùng biển miền Trung, nơi có phong cảnh đẹp thơ mộng, có sương mù tháng bảy, cũng là chiến trường xưa, anh vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý.

⇒ Chi tiết này đã cho thấy những phẩm chất đáng quý trọng của một nghệ sĩ có trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo nghệ thuật, có ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật - một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết và công phu.

- Điều kì diệu của nghệ thuật đã bất chợt đến với Phùng và một buổi sáng, khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt biển xa: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Trong cảm nhận của Phùng:

  • Đó là cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh;
  • Là cảnh đắt trời cho quý giá, hi hữu, kỳ diệu;
  • Là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, cái đẹp cổ điển, chuẩn mực tưởng chỉ có trong một thời quá vãng nay bất ngờ hiện hữu ngay trước mắt, trong hiện tại;
  • Là một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích - vẻ đẹp nguyên sơ, thuần khiết, lí tưởng, thánh thiện.

⇒ Cái đẹp đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt, những khoảnh khắc tràn ngập hạnh phúc cho người nghệ sĩ, anh thấy bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào, đó là sự xúc động vì thấy mình vừa may mắn được tạo hóa ân thưởng, sự may mắn không có nhiều trong cuộc đời những người luôn khao khát được khám phá và sáng tạo cái Đẹp.

- Trong giây phút thăng hoa của cảm xúc, thậm chí nghệ sĩ còn như phát hiện ra bản thân “cái đẹp chính là đạo đức” - đó là khoảnh khắc con người cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa để trở nên trong sáng, thánh thiện khi đứng trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên. Bởi nói như quan niệm của Dostoievski: “cái Đẹp cứu rỗi thế giới” - khi đứng trước cái đẹp, người ta thường không nghĩ đến cái xấu, cái ác, cái dung tục, tầm thường của cuộc đời mà để tâm hồn mình bay bổng hướng thiện.

⇒ Vậy là phát hiện thứ nhất đã diễn ra trong khoảnh khắc gặp gỡ kỳ diệu giữa một tâm hồn nghệ sĩ say mê sự tận thiện, tận mỹ với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc thuyền được nhìn từ ngoài xa, qua làn sương mù huyền ảo - phát hiện đã giúp Phùng có được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ mà mãi mãi về sau… vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật.

b. Phát hiện thứ 2: sự thật trần trụi của cuộc sống

- Phát hiện thứ hai thật trớ trêu với người nghệ sĩ đang bàng hoàng xúc động bởi cảm giác cái đẹp chính là đạo đức.

  • Sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến nghệ sĩ kinh hoàng, sợ hãi, phẫn nộ. chiếc thuyền ngoài xa tiến lại gần và hiện hữu trên đó là bi kịch của cuộc sống thường ngày: hai vợ chồng hàng chài rời thuyền và người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn ngay trước mắt Phùng.
  • Sự thật còn đáng sợ hơn khi Phùng tiếp tục chứng kiến cảnh đứa con trai đánh lại bố để bênh vực mẹ, cảnh người mẹ nhẫn nhục trước trận đòn khủng khiếp của chồng, xấu hổ và đau đớn trước đứa con Phùng còn phải chứng kiến những cảnh tượng đau lòng ấy lần thứ hai, và được biết đó là chuyện thường ngày của gia đình họ khi người chồng vũ phu cứ đánh vợ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.

⇒ Như vậy, cùng một thời điểm, cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát, nhưng với hai cự ly và góc độ khác nhau, người nghệ sĩ đã phát hiện hai bức tranh hoàn toàn tương phản: phía sau cái đẹp thánh thiện trong trẻo của ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu xa, u tối trong cuộc sống con người. Nghịch lý đau đớn này sẽ đưa đến những nhận thức sâu sắc, mới mẻ cho người nghệ sĩ về cách nhìn với hiện thực cuộc đời.

2.2.2. Phát hiện ở Tòa án huyện

- Với tấm lòng nhân hậu và sự bất bình trước cái ác của bạo lực gia đình, cả Phùng và Đẩu đều hi vọng góp phần giải thoát người đàn bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu, tàn nhẫn, và thái độ của người đàn bà khốn khổ đã khiến các anh phát hiện ra nghịch lý không thể hiểu nổi của cuộc sống con người.

  • Cả Phùng và Đẩu đều tin rằng việc khuyên người đàn bà khốn khổ ly hôn là giải pháp đúng đắn và nhân đạo nhất; họ cũng hoàn toàn tin vào thiện chí của mình chắc chắn sẽ được người đàn bà chấp nhận, thậm chí biết ơn.
  • Nhưng họ đã kinh ngạc khi phát hiện ra một nghịch lý trớ trêu: người đàn bà đau khổ ấy lại không hề muốn bỏ người chồng tàn nhẫn, con người bị cầm tù bởi đói nghèo, tăm tối và bạo lực ấy lại tuyệt đối không muộn được giải thoát, thậm chí chị còn khẩn thiết van xin: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.”

- Sau khi đã có sự tin cậy và cảm thông, người đàn bà hàng chài đã kẻ cho Đẩu và Phùng nghe về cuộc đời mình, giải thích cho họ hiểu vì sao dù có khổ sở đến đâu chị cũng không thể bỏ chồng, không thể đi tìm sự giải thoát cho riêng mình, giúp các anh phát hiện ra sự giản đơn chua xót của nghịch lý.

  • Hiện thực với những lí lẽ giản dị mà nghiệt ngã, những mâu thuẫn, éo le qua câu chuyện của người đàn bà thất học, quê mùa nhưng sâu sắc từng trải khiến Đẩu và Phùng bỗng trở thành những người nông nổi, ngây thơ; lòng tốt của các anh mới chỉ dừng lại ở những lí thuyết đẹp đẽ nhưng phi thực tế khi giải pháp các anh đưa ra chỉ có thể giúp người đàn bà bỏ chồng để thoát khỏi đòn roi mà chưa thể giúp chị thoát khỏi cuộc sống lam lũ, vất vả, đói nghèo…
  • Câu chuyện của người đàn bà hàng chài làm vỡ ra nhiều điều trong suy nghĩ của Đẩu và Phùng, đó chính là sự nhận thức, giác ngộ về những nghịch lí vẫn luôn tồn tại đâu đó trong cuộc sống, những nghịch lý mà dù có đau đớn hay phẫn nộ, con người nhiều khi vẫn buộc phải chấp nhận.

2.2.3. Trải nghiệm của nghệ sĩ Phùng trước trận bão biển.

- Tình huống nhận thức trong tác phẩm đã được đẩy đến tận cùng khi Phùng bắt đầu sống và trải nghiệm với cuộc sống người dân chài trong trận bão biển.

- Trong đoạn cuối tác phẩm, khi biển động, trời trở gió đột ngột, Phùng lang thang một mình trên bờ biển, anh chia sẻ cảm giác lo lắng với ông lão làm nghề sơn tràng, anh trăn trở trước một chiếc thuyền vó bè đang đậu trơ trọi giữa phá nước, một mình chống chọi với sóng gió; anh gào lên vì nỗi lo lắng trước những diễn biến bất ưng của cơn bão…;

⇒ Đó là những biểu hiện của một tâm hồn nghệ sĩ gắn bó sâu sắc với tất cả những buồn vui của cuộc đời và số phận con người.

- Tất cả đặt trong sự đối lập với một bức tranh thiên nhiên khủng khiếp khi những tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm… biển gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên, cao như những ngọn núi tuyết trắng,..

⇒ Nhà văn đã gieo vào lòng người đọc những dự cảm lo âu đầy bất ổn: trước cái mênh mông rộng lớn của thiên nhiên, trước những đe dọa, cuồng nộ của sóng gió và bão táp, con người hình như vẫn thật nhỏ bé, yếu đuối và đơn độc.

- Và khi đã “chạm” vào cuộc sống của những người dân chài, dù chỉ thoáng qua trong trận bão biển, với những dự cảm lo âu, với những mong manh chới với, có lẽ Phùng đã thấu hiểu thấm thía hơn câu nói của người đàn bà hàng chài sâu sắc, từng trải: “Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!”;

  • Càng thấu hiểu một cách chua xót rằng hành trình tìm kiếm một bến bờ bình yên ấm áp hình như vẫn quá mong manh, xa vời;
  • Có lẽ Phùng đã hiểu thêm phần nào những nghịch lý mà trước đó, cả anh và Đẩu đều không thể nào hiểu được: không chỉ khi đứng trước cái đẹp, người ta mới quên đi cái xấu, cái ác để say đắm hướng thiện; kể cả khi đứng trước sự cuồng bạo khốc liệt của thiên nhiên, khi da diết hướng về sự sống, lúc ấy, mọi sự tầm thường, xấu xa, mọi bi kịch, đau khổ của con người trong cuộc sống đời thường cũng đều trở nên nhỏ bé, không đáng kể, họ đều có thể quên đi hoặc đơn giản là chấp nhận nó để cùng nhau chung vai sát cánh, để nương tựa vào nhau, bất chấp những đau khổ, nhục nhã, vượt qua cơn cuồng nộ của thiên nhiên, cùng nhau sống, cùng nhau tồn tại.

2.3. Giá trị tình huống

2.3.1. Thông điệp về cách nhìn cuộc sống

- Từ sự đối lập giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh với hiện thực phũ phàng, tàn nhẫn của cuộc sống, nhà văn cho thấy không phải bao giờ cái đẹp cũng thống nhất với cái thiện, không phải bao giờ cái bên ngoài cũng là sự thể hiện bản chất thật bên trong.

⇒ Vì vậy, muốn đúng về bản chất cuộc sống, con người, phải có cái nhìn thấu đáo, toàn diện, sâu sắc từ nhiều góc độ, không thể nhận xét, đánh giá đơn giản, dễ dãi, một chiều căn cứ vào kết quả cảm tính của cái nhìn hời hợt, nông cạn bên ngoài sự vật, sự việc.

- Từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài, tình huống cũng đưa đến một thức nhận thấm thía nỗi chua xót: cái xấu, cái ác nhiều khi vẫn tồn tại trong cuộc sống con người như một lẽ bất khả kháng; con người cần có cái nhìn thấu đạt nhân tình, không phải để chấp nhận, dung túng mà để tìm ra cội nguồn phát sinh nhằm loại bỏ nó, đem lại sự bình yên, tốt đẹp cho cuộc sống con người.

- Tình huống truyện còn đưa đến một nhận thức quan trọng: để giải phóng con người khỏi cảnh đói nghèo, khổ đau, tăm tối cần phải có những giải pháp thiết thực mang tính toàn xã hội chứ không phải chỉ bằng những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiễn, những phương cách cực đoan duy ý chí.

2.3.2. Thông điệp quan trọng về trách nhiệm của người nghệ sĩ với nghệ thuật và con người

- Không thể tách rời nghệ thuật với hiện thực cuộc sống con người; hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật với hiện thực bởi nghệ thuật đích thực luôn gắn bó khăng khít và phản ánh chân thực cuộc sống con người.

- Nghệ sĩ không chỉ cần những phẩm chất đáng quý trọng trong lao động nghệ thuật và sứ mệnh sáng tạo nghệ thuật, cũng không chỉ cần có tư chất nghệ sĩ biết rung động trước cái Đẹp, nghệ sĩ cần phải có tấm lòng nhân ái, có tình thương yêu sâu nặng với con người, biết trăn trở cho số phận con người, có đủ sự sắc sảo, tinh tế để có thể nhìn ra những mảng khuất tối trong cuộc sống, có sự dũng cảm và bản lĩnh trung thực để khám phá và phản ánh những hiện thực dẫu là tàn nhẫn của cuộc sống con người.

2.3.3. Thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc

- Thấu hiểu, xót thương cho số phận bất hạnh của con người trong cuộc sống mưu sinh., trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc và sự bình yên.

- Biết quý trọng những vẻ đẹp dẫu là khuất lấp trong tâm hồn, tình cảm những con người khốn khổ, bất hạnh.

- Thể hiện niềm tin vào sức mạnh của con người có thể vượt qua những khó khăn, thử thách, gian truân để duy trì sự sống và tình yêu thương.

3. Nhân vật người đàn bà hàng chài

3.1. Thân phận người đàn bà hàng chài

- Người đàn bà hàng chài là một con người vô danh, xuyên suốt thiên truyện không có một tên gọi cụ thể nào. Nhà văn chỉ gọi chị là mụ, người đàn bà hay chị ta,…

- Ngoại hình:

  • Người đàn hàng chài trạc ngoài bốn mươi… cao lớn với những đường nét thô kệch.
  • Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ.
  • Tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng vì khi rời thuyền phải lội qua quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối.

⇒ Nỗi xót xa cho nhân vật đã hiện ra ngay trong những đường nét miêu tả đầu tiên về ngoại hình, dáng vẻ của người đàn bà. Đây chính là hình ảnh của một người lao động lam lũ và đau khổ sau một đêm nhọc nhằn và trước một trận đòn nhục nhã ê chề.

- Trước kia, người đàn bà hàng chài được sinh ra trong một gia đình khá giả ở đất liền, nhưng vì khuôn mặt rỗ chằng chịt sau một trận bệnh đậu mùa, con trai trong phố không ai lấy chị. Rồi chị có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến mua bả về đan lưới và theo chồng làm hàng chài lênh đênh trên biển.

⇒ Từ xuất thân cho thấy chị không phải là một người phải chịu cảnh lam lũ nghèo khó từ nhỏ, mà chỉ khi lấy chồng mới phải gánh vác sự vất vả, cay đắng ấy. Có lẽ gánh nặng nhọc nhằn của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả cùng những bất hạnh cay đắng trong cuộc đời đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui, trên gương mặt mệt mỏi, tái ngắt dường như không còn mảy may chút sự sống.

3.2. Hoàn cảnh – những nỗi thống khổ của người đàn bà hàng chài.

3.2.1. Nghèo khổ, đông con

- Trước hết, cùng với cả gia đình, người đàn bà hàng chài phải chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh với những đêm thức trắng kéo lưới; những giày vò đau khổ bởi tình trạng sống bấp bênh đói nghèo tăm tối - kéo dài trên mặt biển gây ra tâm lý bế tắc, u uất.

- Trước đây, mỗi khi biển động, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối, từ khi cách mạng về, cuộc sống của họ đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn chưa lúc nào buông tha.

⇒ Cuộc sống của những ngư dân trên biển không hề thơ mộng, lãng mạn mà vất vả, lam lũ vì gánh nặng mưu sinh, bế tắc, cùng quẫn trên một chiếc thuyền chật chội bấp bênh trên mặt biển đầy sóng gió; tăm tối, nhục nhã vì tình trạng thất học, bạo lực nặng nề.

- Một lí do nữa khiến cho cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài tàn tệ hơn, đó là đông con. Trên những chiếc thuyền, “nhà nào cũng trên dưới chục đứa”, chen chúc nhau mà sống trong khoảng không gian chật hẹp, tù túng và thiếu thốn. Chiếc thuyền lưới vó vốn đã nhỏ hẹp lại càng thêm ngột ngạt bởi tiếng la khóc của trẻ con, những đứa đói, những đứa bệnh, những đứa trẻ không thấy tương lai phía trước.

⇒ Chính sự nghèo đói, đông con khiến người chồng sinh tức giận, tích tụ ngày qua ngày, dần bộc phát và trút lên người vợ đáng thương. Hắn xem vợ mình là nguồn cơn của mọi bi ai mà gia đình đang gánh chịu.

3.2.2. Nạn nhân của bạo lực gia đình

- Sau khi xuống thuyền, người đàn đi thẳng tới bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến chiếc xe rà phá mìn, chị đứng lại ngước mắt ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân. Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng vũ phu, thô bạo cứ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Vì thế nên dù đã chấp nhận, người đàn bà vẫn không nén nổi cảm giác cay đắng, chị nhìn lại con thuyền dường như để tìm ở các con một chút an ủi ấm áp, mong được tiếp thêm một chút sức lực có thể giúp chị vượt qua nỗi đau khổ nhục nhã sắp tới; cử chỉ đưa một cánh tay lên như vô thức của chị có lẽ muốn tìm đâu đó sự thay đổi hay trì hoãn dù chỉ một thoáng, nhưng rồi cũng hiểu ngay rằng đó là điều không thể, cánh tay chị buông thõng phó mặc, cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi, chán chường buông xuôi như một kẻ tội đồ nhẫn nhục chờ hình phạt không tránh khỏi.

- Khi bị chồng đánh dã man, chị chịu đòn với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Đó là thái độ của một người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình - không oán thán, bất bình hay tránh né; cuộc sống đau khổ hình như đã làm mất đi ở người đàn bà kể cả những phản xạ bản năng tối thiểu!

- Để bi kịch thường ngày của người đàn bà hàng chài diễn ra phía sau bãi xe tăng hỏng của chiến trường xưa, có lẽ Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những lo âu, suy ngẫm: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối và bạo lực có lẽ sẽ còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, và chừng nào chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, tăm tối, chừng đó con người còn phải chung sống với cái xấu, cái ác - chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để dành được độc lập, tự do trong cuộc chiến đấu cho quyền sống của dân tộc; nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm gì để đem đến cơm ăn áo mặc, ánh sáng văn hóa và hạnh phúc cho biết bao con người vẫn đang chìm đắm trong kiếp sống đói nghèo, lam lũ và u tối?...

3.2.3. Biểu hiện khi tới Tòa án

- Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ lúng túng, sợ sệt lúc ở Tòa án, trong chi tiết miêu tả người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi, thậm chí khi Đẩu phải mời tới lần thứ hai, chị mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại.

⇒ Đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này hình như đã là phi lý, là dáng vẻ của một con người luôn phải nghe những lời nguyền rủa độc địa và đau khổ: "Mày chết đi cho ông nhờ; Chúng mày chết đi cho ông nhờ"; vì thế luôn mang một mặc cảm có lỗi, luôn muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức hay khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh;

⇒ Cũng có thể đó là tư thế tự vệ bản năng của một con người khốn khổ luôn gặp quá nhiều những rủi ro, bất hạnh, luôn bị đe dọa bởi những bất ưng hiểm họa từ cả con người và thiên nhiên sóng gió.

3.3. Những vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài

3.3.1. Con người nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. (Đối với người chồng vũ phu thô bạo)

- Đối với người đàn bà hàng chài, lão chồng vũ phu không phải là người đàn ông xấu tính, vì ngày đó chính anh ta đã dang cánh tay để che chở chị, cho chị một gia đình, được làm vợ, làm mẹ.

- Chị kể với Phùng và Đẩu rằng: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Chị không oán trách chồng dù chỉ một tiếng, chỉ nhắc về những ngày xưa cũ khi “vợ chồng con cái vui vẻ”. Người đàn ông còn là người yêu nước, yêu dân tộc khi từ chối đi lính ngụy để không bao giờ phản bội đồng bào. Chị nhìn thấu, hiểu và thương yêu chồng bằng tất cả vị tha, nhân ái.

- Người đàn bà nhân hậu ấy cảm thông và xót thương cho nỗi khổ sở u uất trong lòng chồng. Chị hiểu rõ cuộc mưu sinh vất vả, nhọc nhằn trên mặt biển đầy sóng gió, sự nghèo đói khốn quẫn trên một con thuyền chật chội, những cay đắng, bế tắc, phất uất triền miên đã vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con người, khiến một anh con trai cục tính nhưng hiền lành… không bao giờ đánh đập vợ đã dần trở thành vũ phu độc ác. Chị cũng hiểu lão đánh vợ không phải vì thù ghét gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ chỉ như người khác uống rượu cho nguôi quên nỗi khổ sở của mình.

- Do đó, chị chịu đựng những trận đòn tàn nhẫn của chồng như một cách giúp người chồng khốn khổ vơi dịu bớt những u uất, khổ sở dồn nén, chất chứa trong lòng. Chính vì thế mà chị hoàn toàn tự nguyện, lặng lẽ lên bờ, lặng lẽ đi sâu vào phía sau bãi xe tăng hỏng, lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa cháy của chồng, lặng lẽ chịu đòn với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy; và để rồi, sau đó, chị lại đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về thuyền.

⇒ Đó là cách xử sự của một người phụ nữ vị tha, nhân hậu, con người có đức hy sinh tới kỳ lạ, người hiểu rõ bổn phận, nghĩa vụ của mình, và gắng thực hiện cho xong (dẫu đó là những bổn phận, nghĩa vụ phi lý, phi nhân tính).

- Không chỉ thấu hiểu, xót thương cho nỗi khổ sở của người chồng, cũng không chỉ chia sẻ nỗi khổ sở ấy bằng sự chịu đựng kì lạ, người đàn bà nhân hậu còn mang một mặc cảm có lỗi khi cho rằng: giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn… lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

3.3.2. Cảm động nhất chính là vẻ đẹp của tình mẫu tử trong lòng người đàn bà hàng chài.

- Tình mẫu tử được chị ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Có lẽ theo chị, khi gánh lấy cái khổ vì con là lẽ đương nhiên thì việc chị vất vả thức trắng đêm kéo lưới hay chịu đựng những trận đòn như cơm bữa của chồng cũng là điều tất yếu phải chấp nhận. Cuộc sống trên mặt biển đầy sóng gió, những đứa trẻ luôn cần sự che chở, bảo vệ của người mẹ, đó cũng là nguyên nhân khiến chị cho rằng: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”

⇒ Chính tình thương yêu sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục chịu sự đày ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, và quan trọng hơn, đó là người bố của những đứa con, người duy nhất trên đời có thể tận tâm, tận lực cùng chị chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con; cũng vì thương con, muốn bảo vệ các con khỏi bị tổn thương đau đớn mà chị phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh; rồi cũng vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phát, sợ thằng bé có thể làm điều gì đó dại dột với bố nó mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại.

- Tình mẫu tử thiêng liêng cũng là nguyên nhân cho những đau đớn tột cùng của người mẹ. Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ chịu đựng như một người câm, vậy mà khi thằng Phát lao đến đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn - chị mếu máo gọi con, ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy… Thằng bé đã xuất hiện trước mặt mẹ với sự non nớt ngây thơ của cả tình yêu thương người mẹ và niềm căm giận u tối cùng những hành động khiến lương tri của những người làm cha mẹ phải đau đớn, hãi hùng, thằng bé đã từng như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt… Tình thương con đã khiến người mẹ vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã: nỗi đau khi không che chắn nổi cho tuổi thơ của các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bố hành hạ mẹ tàn nhẫn, càng đau hơn bởi từng ngày phải chứng kiến một cách bất lực sự phát triển tính cách của con trong một môi trường tăm tối, bạo lực.

- Tình mẫu tử của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn hiện ra qua niềm vui, dẫu là hiếm hoi, ít ỏi. Khi nhắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận ở trên thuyền, khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - đó là ánh sáng kì diệu tỏa ra từ vẻ đẹp cảm động của tình mẫu tử. Cam chịu, nhẫn nhục vì con, đau đớn, vất vả vì con, và tất nhiên niềm vui của chị cũng xuất phát từ con cái - chị bày tỏ chân thành, cảm động: Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

3.3.3. Người đàn bà từng trải

- Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa, thất học nhưng lại có con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình, có sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời đã khiến các anh trở thành những người nông nổi, ngây thơ. Những nhận xét giận dữ, bất bình, những lời khuyên đầy thiện chí thấm đẫm lòng nhân hậu, những giải pháp tưởng như duy nhất đúng đắn, tưởng như là lẽ đương nhiên không cần bàn cãi: Cả nước này không có một người chồng nào như hắn… Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu đấy đâu… đều lần lượt vấp phải những lí lẽ bình dị nhưng nghiệt ngã và không thể thay đổi của hiện thực cuộc sống qua những thấu trải, chiêm nghiệm sâu xa của người đàn bà.

  • Chị đã giúp họ hiểu ra những nghiệt ngã của cuộc đời; đã chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”
  • Chị cũng cho họ thấy sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc mưu sinh bấp bênh và luôn tiềm ẩn những đe dọa bất ưng trên mặt biển: “các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”; chị cũng giúp họ hiểu rằng với người đàn bà ở thuyền thì hạnh phúc không quan trọng bằng sự sống, sự tồn tại: “đám đàn bà hàng chài chúng tôi cần có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con…”
  • Chị đã giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn, bế tắc trong cuộc sống của ngư dân: ở thuyền thì chật chội, bức bối, bấp bênh nhưng lên bờ thì lại phải bỏ nghề, mà sự tồn tại của ngư dân thì gắn chặt với nghề. Vì vậy, nhiều chính sách nhân đạo tốt đẹp của Nhà nước có khi vẫn bất cập với thực tế cuộc sống của họ: Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!

- Trước kết luận chua chát của Đẩu về cái nghịch lý xót xa: Bây giờ tôi đã hiểu … trên thuyền phải có một người đàn ông.. dù hắn man rợ, tàn bạo, người đàn bà sông nước đã có một lời đáp thật nhẹ nhàng, thấm thía, sâu sắc, chân tình mà thắt vào lòng người khi những chiêm nghiệm được rút ra từ cuộc đời gian truân, vất vả: Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú! Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, ái ngại của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu tất cả những sự có thể và không thể của cuộc sống đời thường. Sự sâu sắc của chị khiến cho người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người khi sự sâu sắc được đổi bằng mồ hôi, nước mắt và cay đắng, nhọc nhằn!

3.3.4. Người đàn bà kiên cường

- Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống của mình, đó là nguyên nhân khiến chị có được sức mạnh để có thể chịu đựng tất cả những khó khăn, thử thách, từ những lam lũ vất vả trong cuộc mưu sinh, những cay đắng, giày vò của cuộc sống đói nghèo đến những đau đớn cả về tinh thần và thể xác trong bi kịch gia đình…; lấy sức chịu đựng phi thường của mình cố gắng che chắn cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm tin trong trẻo ngây thơ cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chồng những nhọc nhằn, cay đắng, lo cho các con có áo mặc, cơm ăn… - dù tất cả những cố gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống!

- Nhiều năm sau, mỗi khi nhìn lại bức ảnh về Chiếc thuyền ngoài xa, bao giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh, khốn khổ trong cuộc sống lầm lụi đời thường, họ đã kiên cường vượt lên trên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân yêu, những người làm nên ý nghĩa cuộc sống của họ, là lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.

⇒ Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình, dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động…, nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận những con người bất hạnh, khốn khổ trong cuộc sống đói nghèo, tăm tối; niềm trân trọng tin yêu với những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn tính cách những con người nhân hậu, vị tha, sâu sắc và dũng cảm.

3.4. Đánh giá

- Giá trị hiện thực: Đất nước vẫn chưa thoát khỏi sư chấn của chiến tranh, đời sống của nhân dân và số phận cá nhân là những vấn đề không thể giải quyết nhanh chóng, cách mạng không thể giải quyết bi kịch cho mỗi cá nhân một cách đơn giản, bởi vậy mỗi con người phải đối diện với bi kịch của cuộc đời mình, chấp nhận nó và dung hòa với nó.

- Giá trị nhân đạo:

  • Thông qua nhân vật người đàn bà hàng chài, nhà văn đã thể hiện sự thấu hiểu, xót thương và lo âu cho số phận bất hạnh và tình trạng sống tăm tối, nghèo khổ của con người.
  • Qua nhân vật người đàn bà hàng chài đau khổ, bất hạnh, nhà văn cũng đồng thời bộc lộ niềm tin yêu với những vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn, tính cách con người.
  • Lên án nạn bạo hành gia đình với những hành động đi ngược lại quyền sống của con người, phá hủy mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.

4. Nhân vật Phùng

4.1. Một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, say mê với cái đẹp

- Phùng là người say mê nghệ thuật, có trách nhiệm với công việc: sẵn sàng bỏ cả vài tuần để đi săn lùng một bức ảnh đẹp, loay hoay suốt mấy ngày vẫn chưa tìm được bức ảnh ưng ý.

- Tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp: trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy

  • Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp toàn bích.
  • Bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”

Nhận xét: Không chỉ nhạy bén trước cái đẹp, Phùng còn có cả những suy tưởng sâu sắc về quan hệ giữa cái đẹp với cái thiện: cái đẹp thực sự phải có khả năng thanh lọc tâm hồn con người.

- Phẩm chất nghệ sĩ của Phùng thể hiện qua cách anh cảm nhận sâu sắc về cuộc sống và con người. Phùng đã phát hiện ra sự đối lập trong bức tranh miền biển:

  • Phát hiện thứ nhất đầy vẻ thơ mộng. Anh cảm nhận được vẻ đẹp mơ màng, huyền ảo của thiên nhiên vùng biển, đặc biệt là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương. Từ góc độ của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng hài lòng với những gì mình đã kịp ghi lại trong ống kính. Bức ảnh ấy là sáng tạo, là công sức của một đời nghệ sĩ, là khoảnh khắc bùng phát của niềm đam mê nghệ thuật.
  • Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí khi con thuyền tiến vào bờ. Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến một sự thật nghiệt ngã, sự bạo hành gia đình. Mặc dù khám phá ra những đối lập song Phòng không quay lưng lại với sự thật cho dù nó phũ phàng, trần trụi.

⇒ Anh đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn ông đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và trực tiếp nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn của Phùng về nghệ thuật và cuộc đời: từ mơ mộng, bay bổng đến sững sờ, vỡ lẽ, từ thương hại, bất bình đến cảm thông, thấu hiểu. Đó cũng là quá trình đi tìm bản chất nghệ thuật và cuộc sống của người nghệ sĩ.

4.2. Một tấm lòng luôn trăn trở về thân phận con người

- Trước cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài, lúc đầu Phùng kinh ngạc tột độ: “chỉ biết há mồm ra mà nhìn”, nhưng sau đó đã vứt máy ảnh xuống chạy nhào tới. Khi chứng kiến thêm một lần nữa, Phùng đã can ngăn, rồi bị thương phải vào viện điều trị.

- Sau câu nói của người đàn bà ở tòa án (xin không bỏ chồng), Phùng cảm thấy bức xúc, “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt” nên đã vén màn bước ra ngoài như muốn đòi lại công lý cho chị ta.

- Khi nghe câu chuyện của người đàn bà, trăn trở, ám ảnh day dứt trong lòng cho số phận những gia đình giống như gia đình Phác, anh xách máy ảnh đi lang thang.

Nhận xét: Mặc dù chưa quen nghịch lý trong cuộc đời nhưng trong anh vẫn là phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ căm ghét những bất công, sẵn sàng hành động vì lẽ công bằng.

4.3. Là nhân vật tự ý thức

- Ban đầu, Phùng là người nghệ sĩ có thái độ dễ bằng lòng, nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi lính ngụy không?”), không sẵn sàng đối mặt với nghịch lý cuộc đời.

- Phùng cảm thông cho số phận của người đàn bà hàng chài, cuộc đời và câu chuyện của chị ở tòa án đã giúp Phùng vỡ lẽ ra nhiều điều, anh biết chấp nhận những điều nghịch lý ở đời.

- Nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ban đầu, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới: “phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện”.

⇒ Thông qua những cảm nhận của Phùng, nhà văn gửi đến người đọc những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật: cần phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất sau vẻ đẹp của hiện tượng.

d. Đánh giá

- Xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, Phùng đã có quá trình tự nhận thức về cuộc đời: đằng sau câu chuyện của gia đình hàng chài là cả một vấn đề nhân sinh và để nhận ra được điều đó cần phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc. Anh hội tự trong mình vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chân chính và vẻ đẹp của một người lính có tấm lòng nhân hậu. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật này trong một tình huống đầy nghịch lí với điểm nhìn trần thuật độc đáo. Câu chuyện được kể dưới cái nhìn của Phùng nên càng gần gũi, chân thực và sâu sắc hơn.

5. Chánh án Đẩu

- Là vị Bao Công vùng biển, tốt bụng, nhiệt tình, nhưng xa rời thực tế, có cái nhìn giản đơn về cuộc sống. Anh đã từng cương quyết khuyên người đàn bà ly hôn.

- Sau khi nghe người phụ nữ nói, “một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu anh”. Anh ngộ ra trong cuộc sống có những nghịch lí buộc con người phải chấp nhận :

  • Đằng sau cái vô lý là cái có lý: Việc người đàn bà bị hành hạ là vô lý, nhưng người đàn bà ấy không muốn bỏ chồng là có lý
  • Đằng sau cái tưởng chừng đơn giản lại ẩn chứa nhiều phức tạp: Đẩu tưởng việc ly hôn có thể giải quyết mọi vấn đề tuy nhiên sau câu chuyện anh nhận ra giữa họ có nhiều ràng buộc.

⇒ Muốn giúp con người thoát ra khỏi cuộc sống đau khổ tăm tối, cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc lý thuyết suông. Đó là phải nâng cao đời sống, phải giáo dục con người.

6. Người chồng vũ phu :

- Lão đàn ông có “mái tóc tổ quạ” , “chân đi chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”

- Có lẽ cái đời đói nghèo vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan cực nhọc đã biến anh con trai “cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác.

- Vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ , vừa là thủ phạm gây nên biết bao đau khổ cho chính những người thân của mình . “Bất kể lúc nào thấy khổ quá thì lão xách tôi ra đánh…Giá mà lão uống rượu thì tôi còn đỡ khổ…” . “ Lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Lão đánh vợ như để giải tỏa những uất ức, khổ đau.

⇒ Cần phải lên án.

⇒ Sự tàn bạo có thể nảy sinh từ cuộc sống khốn khổ.

⇒ Vấn đề đặt ra: làm sao để giữ thiên lương, nhân cách con người trước sự xô đẩy của hoàn cảnh, làm sao để người dân thoát khỏi cuộc sống khốn khổ, tăm tối ấy.

7. Chị em Phác

7.1 Chị thằng Phác: một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trong tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. Cô bé luôn là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương. Cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan việc nhà khi mẹ đi vắng, phần nào an ủi người mẹ vốn chịu nhiều đau khổ.

7.2. Nhân vật Phác:

a. Phác là đứa trẻ vùng biển, hồn nhiên, hiểu biết và giàu lòng tự trọng:

- “tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới tơ”, “tỏa ra mùi nước mặn”.

- “cặp mắt đầy vẻ ngây thơ” như cặp mắt của một “chú hổ con từ miền rừng vừa lạc về” nét ngây thơ, hồn nhiên cùng nét hoang sơ của núi rừng.

⇒ Phác là đứa trẻ sớm dãi dầu mưa nắng, không được chăm sóc chu đáo.

- Từ nhỏ, đã được mẹ đưa lên rừng ở nên Phác có vốn am hiểu về thiên nhiên và cuộc sống núi rừng rất phong phú: “Giải thích cặn kẽ” cho Phùng nghe “cuộc sống của những giống chim trên rừng”.

⇒ Sống gắn bó với thiên nhiên, là một đứa bé nhiệt tình, hòa đồng và thân thiện;

⇒ Đặc biệt có thể nhận thấy ở Phác sự thông minh, nhạy bén với cuộc sống, biết học hỏi và quan sát mọi thứ xung quanh. Điều đó khiến Phác chịu nhiều ảnh hưởng xấu về cả tinh thần lẫn hành động khi là nạn nhân trực tiếp của nạn bạo hành gia đình.

b. Sau cái lần Phùng chứng kiến cảnh cha nó đánh mẹ nó, thằng bé có những thay đổi trong cách xử sự với Phùng:

  • “Thằng bé không cho tôi lại gần”
  • “đâm ra thù ghét tôi, hết sức thù ghét”
  • “đối xử như một kẻ hoàn toàn xa lạ”
  • “nhìn tôi bằng con mắt âm thầm, giấu kín đầy sự thù ghét”

⇒ “một đức trẻ con kì lạ nhất trần đời”, giàu lòng tự trọng, mang cảm giác xấu hổ khi Phùng đã biết rõ hoàn cảnh gia đình nó .

⇒ Phác rất trẻ con, vẫn tỏ ra hờn dỗi, hành động và suy nghĩ vẫn rất con nít. Phác là đứa trẻ vùng biển mang những tính cách của một đứa trẻ bình thường khác: hồn nhiên, hoạt bát, trẻ con và đặc biệt có vốn am hiểu về thiên nhiên.

c. Phác là đứa con giàu lòng yêu thương mẹ:

- Tuy sống xa mẹ từ nhỏ, thiếu sự chăm sóc, quan tâm từ mẹ nhưng Phác vẫn luôn cảm nhận được tình thương của mẹ và yêu quý, bảo vệ cho mẹ.

  • Khi mẹ nó bị cha nó đánh, nó đã lao vào giành chiếc thắt lưng trong tay cha nó, nghiến răng chịu hai cái tát nảy lửa. Rồi nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay sờ lên khuôn mặt mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”.
  • Nó tuyên bố: nó còn có mặt dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh.

⇒ Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ nó nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.

d. Phác là nạn nhân của bạo hành gia đình:

- Tuy hành động của Phác khi lao vào đánh người đàn ông đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương mẹ, không muốn thấy mẹ mình chịu đau đớn, nhưng đó cũng chỉ là hành động nông nổi, chưa hiểu hết sự tình bên trong của Phác.

- Hành động đó cũng cho thấy, Phác vừa đối nghịch cũng vừa thống nhất với người đàn ông:

  • Giống người bố độc ác từ hình thức đến tính tình: đều mạnh mẽ, liều lĩnh, mang phẩm chất của những người đàn ông vùng biển.
  • Hành động đánh cha của Phác, ý định dùng “con dao găm” để đâm chết cái người làm mẹ khổ chính là hành động bạo lực, ảnh hưởng bởi cha nó.

⇒ Hành động chạy lao đến để ngăn cha đánh mẹ, “nhảy xổ vào cái lão đàn ông”cho thấy sự căm thù của Phác đối với cha, mặt khác cũng phản ánh sự ảnh hưởng những hành động bạo lực của người đàn ông đối với Phác. Những hành động phản kháng ngày càng tăng tiến về mức độ đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cả xã hội khi Phác thật sự trở thành nạn nhân của nạn bạo hành gia đình, là mối quan tâm lớn khi thằng bé định dùng “con dao găm” để giết cha mình.

- Chính những hành động đánh đập dã man của người đàn ông đã gây tác động xấu đến suy nghĩ và hành động của thằng Phác.

⇒ Trong tâm trí của thằng bé giờ đây chỉ còn sự thù hận, căm ghét. Điều đó đã làm mất đi sự hồn nhiên, đã tổn thương về tinh thần của một đứa trẻ đang trưởng thành.

  • Như một “chú sói con” đang dần đi vào con đường bạo lực giống cha nó.
  • Thằng bé “thông minh và dễ thương hoàn toàn biến thành một đứa trẻ độc ác và mất dạy”.

⇒ Phác đã vô tình trở thành một nạn nhân của bạo hành gia đình, nghèo đói và thất học. Mai đây, Phác cũng có thể trở thành người đàn ông thứ hai và tương lai của nó cũng sẽ giống như cha nó.

⇒ Đó chính là vấn đề bức thiết được đặt ra trong tác phẩm: Hãy cứu lấy nhân tínhcủa những con người, đặc biệt là những đứa trẻ đáng thương và tội nghiệp.

8. Chi tiết tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy

- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, nhìn lâu hơn nữa bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh...”

  • “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai chính là chất thơ của cuộc sống, là cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật.
  • “Người đàn bà bước ra từ tấm ảnh” là hiện thân cho những lam lũ, khốn khó đời thường, là sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh.

⇒ Quan niệm của nhà văn về nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời và phải là cuộc đời, luôn luôn vì cuộc đời.

III. ĐÁNH GIÁ

1. Nội dung

- Tác phẩm thể hiện mối quan hoài thường trực của nhà văn Nguyễn Minh Châu với số phận con người trong cuộc sống đời tư - thế sự, niềm khao khát tìm kiếm, tôn vinh vẻ đẹp con người, những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái ác; tác phẩm cũng đồng thời thể hiện vẻ đẹp của nghệ thuật văn xuôi Nguyễn Minh Châu với lối văn giản dị mà thấm thía, nhiều dư vị, nhiều trải nghiệm thâm trầm qua những triết lý nhân sinh sâu sắc.

- Cũng như nhiều tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã bộc lộ sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc của nhà văn với số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan, đau khổ kiếm tìm hạnh phúc và sự bình yên.

- Qua đó, tác phẩm đã thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng thời giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp nghệ thuật quan trọng có giá trị định hướng cho cả một giai đoạn sáng tác văn chương.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng cốt truyện qua cách tạo tình huống độc đáo, “tình huống nhận thức” để nhân vật khám phá, phát hiện về chân lý đời sống, chân lý nghệ thuật.

- Cách tạo tình huống nghịch lí, khám phá cuộc sống ở nhiều góc độ khác nhau.

- Ngôn ngữ kể chuyện linh hoạt, sáng tạo.

- Ngôi kể: nhân vật Phùng- “tôi”- hóa thân của tác giả.

- Ngôn ngữ nhân vật: linh hoạt, phù hợp với tính cách các nhân vật.

D. Gợi ý kết bài

Mẫu số 1

Chiếc thuyển của nghệ thuật đang trôi ngoài xa cuộc đời kia đã làm toát lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật, nằm trong cuộc sống, phải thể hiện cuộc sống, giống như nhà văn Nam Cao: “phải sống đã, rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân”. Là người sống sâu sắc, từng trải với đời, Nguyễn Minh Châu giống như con tằm bấy lâu nay chắt chiu, cần mẫn để nhả cho đời những sợi tơ văn chương óng vàng mà “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là minh chứng rõ ràng, chân thực nhất.

Mẫu số 2

Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống và qua sự thay đổi nhận thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tìm tòi, phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó.

E. Tư liệu liên hệ, mở rộng

1. “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống”. (Phỏng vấn đầu xuân 1986).

2. “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối mặt với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống” (Nhà văn, đất nước và dân tộc mình)

3. “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Nguyễn Minh Châu – Trả lời phỏng vấn báo văn nghệ đầu xuân 1987)

4. “Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó.” (Nguyễn Minh Châu)

5. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm - mà tâm điểm là con người” (Trang giấy trước đèn – Nguyễn Minh Châu)

6. “Đã đến lúc ta phải đưa văn học đặt trước ngưỡngcửa của từng nhà chứ không phải đặt dưới chân tượng thánh.” (Nguyễn Minh Châu)

7. “Người viết nào cũng có thể có tính xấu nhưng tôi không thể nào tưởng tượng nổi nhà văn lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan tâm thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cần giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nổi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống”. (Nguyễn Minh Châu)

8. “Từ xưa đến nay, tôi vẫn thấy là một Nguyễn Minh Châu. Trước đây có một Nguyễn Minh Châu tài hoa, tinh tế làm sáng lên cái chi tiết bình thường hàng ngày. Vẫn cái tài hoa ấy, hôm nay nó không bột phát tự nhiên mà sâu xa hơn”. (Nhà văn Lê Lựu)

9. “Từ những câu chuyện không hề mang tính điển hình nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tìm ra các khía cạnh khác nhau của thế thái nhân tình một thứ triết học nhân sinh” (PGS.TS Tôn Phong Lan)

10. “Trong truyện của anh, mọi cái đã vỡ ra tạo nên những khoảng trống, phải nghi ngờ, phải nghĩ.” (Giáo sư Phong Lê)

11. “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này.” (Nguyễn Khải)

12. “Anh là người kế tục xuất sắc nhất những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam, và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. (Nguyễn Khải)

13. “niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng…” (Nhà phê bình N.I.Niculin)

  • 25 lượt xem
Sắp xếp theo