Vợ nhặt - Kim Lân

“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...” 

A. Hệ thống luận điểm chính

B. Gợi ý mở bài 

Mẫu số 1

Nhà giáo Trần Đăng Ninh từng nhận xét: “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng.” Và phải chăng “những tia sáng ấm lòng” ấy chính là tình yêu thương, là sức sống mãnh liệt của các nhân vật ị đẩy tới đường cùng tuyệt vọng, phải đối mặt với cái chết nhưng lại biết tự tỏa sáng để nâng tầm giá trị của con người. Bằng óc quan sát tinh tế và tấm lòng cảm thông sâu sắc với số phận con người, Kim Lân đã thực sự làm bạn đọc xúc động khi xây dựng thành công hình tượng nhân vật (…) trong trích.

Mẫu số 2

Mỗi một nhà văn thường khẳng định vị trí của mình trên diễn đàn văn chương bằng một mảnh đất nghệ thuật. Khi bắt gặp mảnh đất nghệ thuật này, ngòi bút của người nghệ sĩ sẽ thực sự thăng hoa. Nếu như mảnh đất thơ mộng trữ tình Tây Bắc được xem là một "miền đất hứa" với biết bao văn sĩ như Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Khải.... Nếu Nguyên Ngọc cả đời trung thành với mảnh đất đỏ badan, với tiếng cồng chiêng âm vang, hạt bụi vàng lóng lánh thì Kim Lân lại luôn đi về với cái thuần hậu, nguyên thủy, với đất và con người trên mảnh đất nông thôn. “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân là truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài nông thôn, phản ánh xuất sắc hiện thực khốc liệt của đời sống lúc bấy giờ, đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người dân nông thôn vẫn trường tồn bất diệt dù trong nghịch cảnh đói kém.

Mẫu số 3

Nhà văn Pháp Napoluye từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết ra”. Vâng, một tác phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt mới – địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái đói.

C. Phân tích chi tiết 

I. Khái quát chung

1. Tác giả

- Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài (1920 – 2007), quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân tham gia Hội Văn hoá cứu quốc từ năm 1944, sau đó liên tục hoạt động văn học nghệ thuật phục vụ kháng chiến và cách mạng.

- Khác với Tô Hoài, Kim Lân sáng tác không nhiều. Ông là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Đề tài quen thuộc của nhà văn là cuộc sống nông thôn và người nông dân. Cả truyện ngắn “Làng” và “Vợ nhặt” đều là những thế giới của “đất”, của “người”, của những gì “thuần hậu” được “dệt” bằng tình cảm thiết tha, sự gắn bó sâu nặng của nhà văn với thế giới nhân vật và không gian quen thuộc vẫn đi về trong các sáng tác của ông.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ:

- Tiền thân của truyện ngắn “Vợ nhặt” là một chương trong tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Cuốn tiểu thuyết này được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Tới năm 1954, khi hòa bình lập lại, Kim Lân đã dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết “Vợ nhặt” và được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).

b. Cảm hứng chủ đạo:

- Bối cảnh mà nhà văn lựa chọn để dựng truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Tuy nhiên, mục đích của Kim Lân khi sáng tác “Vợ nhặt” không phải là tái hiện cái hiện thực đó mà trong nhiều cuộc trò chuyện, trao đổi về tác phẩm, ông đều tâm sự rằng mình viết về cái đói để khẳng định sự thật này: những người đói khổ “dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, hướng về ánh sáng, tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai”.

⇒ Như vậy, ý đồ nghệ thuật của nhà văn Kim Lân đã rất rõ: mượn cảnh đói rét thê thảm để làm ngời lên, nổi bật lên vẻ đẹp của lòng nhân ái và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt trong tâm hồn người dân lao động.

c. Nhan đề:

- Nhan đề “Vợ nhặt” tạo ra một ấn tượng sâu sắc kích thích sự tò mò, chú ý của người đọc, bao chứa một tình huống độc đáo, éo le, trớ trêu, bi thảm mà thấm đẫm tình người.

- Góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm.

  • Đem đến cho người đọc ấn tượng về thân phận người lao động trong nạn đói 1945, người ta nhặt được vợ như nhặt cọng rơm, cọng cỏ ở ngoài đường.
  • Gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thống trị, chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc đẩy người dân vào số phận bi thảm. 
  • Khẳng định những người lao động ở nước ta dù rơi vào tình cảnh nào thì họ vẫn là những con người giàu tình cảm, khát khao mái ấm gia đình và hướng đến tương lai tươi sáng.

II. Phân tích 

1. Tình huống truyện

1.1. Tình huống xuất hiện ngay từ nhan đề tác phẩm:

- “Vợ nhặt” là một nhan đề tạo ra những ấn tượng sâu sắc, kích thích sự tò mò, chú ý của người đọc, hé mở tình huống đặc sắc của tác phẩm.

  • Vợ là một phần quan trọng trong cuộc đời người đàn ông, lấy vợ là một trong những việc lớn của đời người, một việc thường được thực hiện theo phong tục truyền thống của người Việt với các bước mai mối dạm hỏi, cưới xin…trang trọng.
  • “Nhặt” là một động từ chỉ những hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm để lấy một vật gì đó thường là từ dưới đất lên, một vật hoặc quá nhỏ bé nên không ai để ý, hoặc không còn giá trị nên đã bị vứt bỏ.

⇒ Nhan đề Vợ nhặt đã khiến người đọc phần nào suy đoán được phẩm chất giá trị của người vợ khi được nhặt về như cỏ rác; cũng đồng thời hình dung được tình cảnh của người chồng khi một việc lớn lao, trọng đại của đời người lại được thực hiện bởi một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm.

⇒ Như vậy, nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt với sự hàm chứa những mâu thuẫn, éo le đã góp phần thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm, giúp nhà văn phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của những người nông dân nghèo trong nạn đói 1945.

1.2. Tình huống được tạo dựng trên cơ sở những mâu thuẫn, trở nên được đẩy tới tận cùng giới hạn:

- Sự trớ trêu đầu tiên xuất hiện ở nhân vật Tràng - chủ thể của hành đồng nhặt vợ. Tràng là người mà ngay trong hoàn cảnh bình thường cũng rất ít khả năng có thể lấy được vợ - hắn là dân ngụ cư với địa vị lép vế trong làng xã, lại nghèo khổ, xấu xí, thô kệch và hơi dở tính. Vậy mà Tràng lại lấy được vợ, thậm chí chóng vánh, dễ dàng đến mức chính hắn cũng không tin nổi. Sự trớ trêu thứ hai đặt ra ở hoàn cánh nhặt vợ của Tràng.

- Hôn nhân là biểu tượng của cuộc sống gia đình, của sự sinh con đẻ cái, của sự sống. Vậy mà việc nhặt vợ của Tràng lại diễn ra vào thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói Ất Dậu, khi làng ngụ cư của Tràng bao trùm trong không khí chết chóc lạnh lẽo.

- Tình huống éo le đã được tạo ra bởi sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hi vọng và tuyệt vọng, giữa ấm áp của tình người và cái lạnh lẽo thê lương của chết chóc…

- Tình huống trớ trêu ấy đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người: dân xóm ngụ cư thì thầm phỏng đoán; bà cụ Tứ không tin nổi mắt mình và ngay cả Tràng cũng ngờ ngợ, bàng hoàng như đang trong một giấc mơ.

1.3. Giá trị tình huống:

a. Giá trị hiện thực:

- Bề mặt: bức tranh hiện thực của làng quê khi việc nhặt vợ của Tràng diễn ra chính trong nạn đói 1945, qua đó mà bộc lộ những nét sâu đậm nhất của tư tưởng nhân đạo. Tràng đưa vợ về nhà và bắt đầu cuộc sống gia đình trong khung cảnh làng ngụ cư ngập tràn âm khí với những đám người dắt díu nhau, xanh xám, dật dờ như những bóng mà bên những người chết còng queo chưa kịp chôn cất, với âm thanh của tiếng hờ khóc người chết, tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết với mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác chết và nhất là với bóng tối lạnh lẽo, thê lương trùm phủ xóm làng …

- Bề sâu: khi sự đói khát khiến giá trị của con người trở nên rẻ rúng, những điều đẹp đẽ thiêng liêng của cuộc sống trở nên bi hài, chua chát đến tội nghiệp.

  • Sự đói khát đã khiến cho hình hài, bộ dạng con người tiều tụy, thê thảm. Trẻ con xóm ngụ cư ủ rũ như những ông già; người lớn mặt u tối, hốc hác; người vợ nhặt mặc bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ con hai con mắt.
  • Sự đói khát đã hủy hoại cả nhân cách con người. Điều này thể hiện chua xót nhất trong nhân vật người vợ nhặt. Một người đàn bà phải vứt bỏ những ý tứ, những phép tác xã giao, những sĩ diện, xấu hổ, bẩu xíu vào một câu hò đùa để kiếm miếng ăn thật; phải gạt phăng những miếng trầu xã giao lễ nghĩa để chọn bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dày trống rỗng; phải vứt bỏ cả lễ giáo và sự thận trọng, bám vào một câu đùa tầm phơ tầm phào để theo không một người đàn ông xa lạ, mong tìm chốn nương thân, hi vọng chạy trốn cái đói.

⇒ Miếng ăn ngày đói đã trở thành sự khởi đầu và đích đến của một mối quan hệ thiêng liêng, trở thành yếu tố chi phối khốc liệt với nhân cách con người. Sự đói khát khiến cuộc sống trở nên đau đớn, kì quái, con người không được sống cho ra con người.

b. Giá trị nhân đạo

- Khẳng định, ngợi ca, trân trọng và thể hiện niềm tin vào bản chất tốt đẹp của những con người biết vượt lên trên cái đói, cái thảm đạm để sống, để yêu thương, để vui và hi vọng.

+ Tình huống truyện đã cho thấy sự đói khát không làm con người mất đi lòng nhân ái.

  • Lòng nhân ái đã thể hiện ngay trong việc nhặt vợ của Tràng. Chia sẻ miếng ăn với một người xa lạ đang đói khát không hẳn chỉ là bốc đồng, chia sẻ cuộc đời với một người đàn bà khốn khổ, xấu xí không hẳn chỉ là liều lĩnh – đằng sau sự bốc đồng, liều lĩnh ấy là tấm lòng hào hiệp của người đàn ông có trái tim nhân ái.
  • Lòng nhân hậu, vị tha đặc biệt tập trung ở những nỗi niềm của bà cụ Tứ, đều chỉ xuất phát từ tình cảm xót thương vô bờ bến với cả con trai và con dâu. Khi chấp nhận người đàn bà xa lạ, đói khát làm dâu con, bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả nỗi ám ảnh khủng khiết của sự đói khát, chết chóc đã chấp nhận cưu mang một con người khốn khổ, để vun đắp cho hạnh phúc của con cái. Biết trân trọng, yêu thương, biết chia sẻ, quan tâm lo lắng cho nhau ngay trong cảnh khốn cùng, đó là biểu hiện cao nhất của lòng nhân ái, đó cũng là phẩm chất đẹp đẽ truyền thống của một dân tộc luôn nhắc nhau lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân.

+ Sự đói khát không làm con người mất đi những khát vọng hạnh phúc:

  • Quyết định nhặt vợ liều lĩnh của Tràng sau một thoáng phân vân, do dự;
  • Những khuôn mặt hốc hác, u tối… của những người dân xóm ngụ cư bỗng rạng rỡ hẳn lên khi nhìn thấy Tràng dẫn vợ về trong buổi chiều chạng vạng;
  • Cảm giác mới mẻ, hạnh phúc, trạng thái êm ái lửng lơ trong lòng Tràng vào sáng hôm sau;
  • Nét mặt nhẹ nhõm, tươi tình của bà cụ Tứ…

⇒ Đó là những biểu hiện rõ nhất của niềm khát khao hạnh phúc, niềm mong ước được tìm đến với nhau, được sum vầy trong những mái ấm gia đình, khát vọng ấy vẫn tồn tại trong tâm hồn những con người đang sống trên bờ vực hủy diệt của sự đói khát.

+ Sự đói khát không làm con người mất đi những hi vọng vào một tương lại tươi sáng, tốt đẹp hơn.

  • Việc Tràng mua hai hào dầu thắp đèn và nhất là thái độ đồng tình của bà cụ Tứ với việc làm có vẻ xa xỉ, bốc đồng của con trai: “ừ, thắp lên một tý cho sáng sủa…” cho thấy trong lòng những con người đang sống trên bờ vực của chết chóc ấy hình như vẫn ấp ủ một niềm tin mong manh mà mãnh liệt về sự thay đổi cuộc đời, biết đâu từ sau niềm vui tỏa ra bởi ngọn đèn dầu bé nhỏ, không gian sống của họ cũng sẽ bắt đầu sáng sủa hơn?
  • Sáng hôm sau Tràng thức dậy trong ánh sáng kì diệu, chói lóa của buổi sáng mùa hè, đó cũng là ánh sáng của niềm vui, của nguồn sinh khí rạo rực tỏa ra trong cuộc sống gia đình, là niềm hi vọng vào sự sáng sủa hơn trong cuộc đời những con người nghèo khổ.
  • Những lời bà cụ Tứ động viên các con bằng cái triết lí dân gian: “Ai giầu ba họ, ai khó ba đời”; cách bà lo toan, cắt đặt công việc, cùng con dâu thu dọn cửa nhà cho quang quẻ; niềm tin ngây thơ, cảm tính mà thật vững chắc khi nghĩ rằng chỉ cần thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn! - đó là những chi tiết cho thấy người lao động không bao giờ bi quan, tuyệt vọng, niềm tin vào sự tốt đẹp của cuộc sống, niềm hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn luôn là nguồn sức mạnh để họ có thể vượt qua cái đói, cái thảm đạm để sống và yêu thương.
  • Đặc biệt, hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới trong tâm trí Tràng ở cuối truyện đã khẳng định chắc chắn hơn niềm tin và sức mạnh ấy, đó là hình ảnh cho thấy những hi vọng của người dân xóm ngụ cư, của mấy mẹ con Tràng không hão huyền, viển vông, là tín hiệu chắc chắn của sự đổi đời đã và sẽ hiện hữu trong hiện thực cuộc sống.

2. Nhân vật Tràng

a. Hoàn cảnh sống

- Nhân vật Tràng được ngòi bút Kim Lân khắc họa trong bối cảnh làng quê Việt Nam vào những ngày đói “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”.

- Bầu không khí được miêu tả bởi “mùi ẩm thối của rác rưởi và mui gây của xác người” – một không khí ảm đạm, chất chứa sự chết chóc đang bao trùm lên cái không gian sống nơi đây, bao trùm những người đã chết, những xác chết và bao trùm lên cả những con người còn sống.

- Thêm vào đó là âm thanh của bầy quạ không biết từ đâu bay về đậu kín ở cây gạo ngoài bãi chợ đang “gào lên từng hồi thê thiết” như đưa tiễn buổi hoàng hôn của đời để bước vào đêm tối của địa ngục.

⇒ Phông nền xã hội của nông thôn Việt Nam trước sự đe dọa của cái đói, cái chết – một hiện thực kinh hoàng về nạn đói năm 1945. 

b. Thân phận của nhân vật

Xuất thân: Tên là Tràng (một dụng cụ trong nghề mộc) – một tên gọi giản dị, mộc mạc, là dân ngụ cư có địa vị thấp kém trong xã hội.

 

Gia cảnh: Nhà Tràng có 4 người nhưng bố và em gái đã mất, Tràng sống cùng mẹ trong một căn nhà “vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và Tràng làm nghề kéo xe thóc thuê cho Liên đoàn – công việc bấp bênh, nặng nhọc, vất vả. Tất cả những hình ảnh đó gợi ra gia cảnh tột cùng nghèo khó của Tràng.

Ngoại hình: Tràng xuất hiện ngay từ đầu truyện ngắn với dáng vẻ thô tháp, vụng về của một anh chàng xấu trai và hơi dở tính với khuôn mặt thô kệch, đôi mắt gà gà đắm vào bóng chiều. Sự ám ảnh của cái đói đã hiện rõ trong mỗi buổi chiều về khi Tràng không con vừa đi vừa ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch nữa, bây giờ, hắn đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước.

Tính cách nhân vật (được thể hiện rõ nhất qua tình huống “nhặt vợ”):

Từ việc chia sẻ miếng ăn với một người đàn bà đang đói khát đến việc nhặt vợ bị động, bất ngờ, Tràng đã thể hiện những nét tính cách đầu tiên của con người liều lĩnh, chất phác, nhân hâu và hào hiệp. Thoạt nhìn, việc mời một người đàn bà xa lạ giữa đường ăn bốn bát bánh đúc ngay khi bản thân mình đang đói khổ có vẻ như bốc đồng và việc đưa thị về nhà làm vợ có vẻ như liều lĩnh; nhưng cũng có thể thấy sâu xa trong sự bốc đồng là một tấm lòng nhân hậu, một tính cách hào hiệp và sâu xa trong sự liều lĩnh không chỉ là tình thương mà còn là những khát vọng âm thầm về một tổ ấm gia đình.

c. Diễn biến tâm lý:

- Sau quyết định bất ngờ, đột ngột của chính mình, “Tràng vẫn ngờ ngợ… sờ sợ…”, không tin nổi mình đã lấy được vợ một cách quá dễ dàng, chóng vánh đến thế, lại trong một tình cảnh đói khát éo le đến thế, không thể tin nổi mình – một anh chàng từng nói một cách thản nhiên: “Làm đếch gì có vợ”, nay bỗng nhiên lại có một người vợ thực sự, thậm chí tới sáng hôm sau tỉnh dậy, Tràng vẫn “ngỡ ngàng như đang trong một giấc mơ”. Cảm giác ngạc nhiên đến mức tội nghiệp ấy là nét tâm lí chân thực của một người đàn ông quá nghèo khổ, bất hạnh đến mức không dám tin vào hạnh phúc bất ngờ của mình.

- Sau sự ngạc nhiên, lo lắng, Tràng bay bổng trong cảm giác hạnh phúc: Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng như trở thành một con người khác hẳn: “Mặt hắn có vẻ gì phớn phở khác thường”, “hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” – hạnh phúc như một thứ ánh sáng kì diệu từ bên trong tâm hồn Tràng, rạng ngời trên khuôn mặt đang nở ra vì sung sướng, trong ánh mắt lấp lánh không kiềm chế được niềm hân hoan, xúc động. Trước những tò mò, ngạc nhiên phỏng đoán của dân làng, Tràng càng hãnh diện, sung sướng “hắn lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc”.

- Buổi sáng đầu tiên khi có vợ. Tràng thức dậy với cảm giác êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, thậm chí anh còn thấy xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Tràng mơ ước hạnh phúc, liều lĩnh vì hạnh phúc và cuối cùng anh đã tìm thấy hạnh phúc ngay trong tận cùng đói khát, khổ đau.

- Hạnh phúc đã làm Tràng biến đổi sâu sắc – anh con trai vô tâm, ngộc nghệch trước đây nay đã nên người, đã trở thành một người đàn ông sống có trách nhiệm, nghĩa tình.

  • Sự biến đổi đầu tiên của Tràng được thể hiện trong thái độ đối với người vợ nhặt. Khi dẫn vợ về nhà, Tràng đã thấy trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên… Với Tràng, người đàn bà khốn khổ, đói khát, lăn xả vào hắn để kiếm miếng ăn, bám chặt lấy hắn để chạy trốn cái đói tuyệt nhiên không phải vợ theo, vợ nhặt mà là người vợ thực sự theo đúng ý nghĩa thiêng liêng nhất. Vì thế, dù nghèo khổ, Tràng cũng muốn đánh dấu cái ngày đặc biệt trọng đại trong cuộc đời mình, muốn thể hiện sự trân trọng với vợ bằng một lần được coi thường đồng tiền, một lần được xa xỉ với hai hào dầu cho sáng sủa trong ngày đón vợ về.
  • Từ việc làm có vẻ hơi bốc đồng khi mua cho vợ cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê trước khi về nhà, đó là thái độ trân trọng cuộc sống, cũng là sự trân trọng hạnh phúc của chính mình, đó cũng là cách ứng xử chu đáo, nghiêm túc của một con người đã thực sự trưởng thành.
  • Tràng cứ băn khoăn, áy náy đến xót xa vì vẻ buồn bã của vợ khi thị ngồi bần thần trong gian nhà lạ rúm ró. Có tới hai lần. Tràng tự hỏi: Sao nó buồn thế nhỉ? Sao hôm nay nó buồn thể nhỉ? 
  • Tràng đã bồn chồn lo lắng chờ mẹ về, giới thiệu người vợ nhặt với mẹ một cách trân trọng, thậm chí hàm ơn: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi…, Tràng đã thở phào nhẹ nhõm trước câu nói đầu tiên của mẹ, câu nói chấp nhận người vợ mình nhặt về một cách đường đột, éo le – đó là những trạng thái tâm lí chân thực và cảm động thể hiện thái độ trân trọng cùng tình thương yêu của Tràng với người đàn bà mới sáng nay vẫn còn xa lạ, còn từ bây giờ gắn bó với hắn suốt đời.
  • Sự biến đổi của Tràng còn thể hiện qua tình cảm, thái độ đối với cuộc sống gia đình. Trong buổi sáng hôm sau thức dậy, Tràng đã thấm thía cảm động trước cảnh tượng đầm ấm của gia đình khi nhìn thấy mẹ và vợ cùng thu dọn nhà cửa, sân vườn. Không khí ấy khiến Tràng thấy mình như trưởng thành, với những ý thức sâu sắc về tình cảm, bổn phận, trách nhiệm: Bỗng nhiên, hắn thấy hắn thương yêu gắn bó… lạ lùng với cái tổ ấm nơi hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái…bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
  • Biến đổi lớn lao, mới mẻ nhất của Tràng được Kim Lân miêu tả trong chi tiết: khi nghe vợ kể về những đoàn người đói rách đi theo Việt Minh phá kho thóc Nhật, Tràng có cảm giác tiếc rẻ vẩn vơ – cảm giác của Tràng cho thấy từ nay, khi có một gia đình phải lo, chắc chắn Tràng sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội đến với cách mạng, đi theo cách mạng để lo miếng cơm, manh áo cho vợ con. Và ở cuối truyện, ngay khi Tràng đang cố nuốt miếng cháo cám đắng chát vào miệng thì hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới trong tâm trí Tràng vẫn đem lại niềm tin sâu sắc cho người đọc: những người như Tràng sẽ đến với cách mạng một cách tích cực, nhanh chóng, triệt để nhất bởi chỉ có cách mạng mới có thể giúp họ thay đổi cuộc đời, mới có thể đem lại hạnh phúc và cuộc sống ấm no cho gia đình, vợ con họ.

3. Nhân vật bà cụ Tứ

3.1. Ngoại hình: Bà cụ Tứ xuất hiện hiện trong tiếng ho húng hắng, trong dáng người lọng khọng, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán. Đó là những nét khác họa đầu tiên đầy ấn tượng về ngoại hình, dáng vẻ một người mẹ nghèo khổ, già nua, còm cõi, luôn trĩu nặng những lo toan về cuộc sống.

3.2. Diễn biến tâm trạng:

- Ngay khi vừa xuất hiện, bà cụ Tứ đã phải đối mặt với tình huống oái oăm của con trai, cũng là của chính gia đình: anh con trai ngộc nghệch nhặt về một cô vợ rách tả tơi ngay trong những ngày đói khát thê thảm. 

  • Khi thấy Tràng ra tận ngõ đón mẹ, lại thấy anh ta reo lên như một đứa trẻ, thái độ vồn vã, trang trọng khác thường của con trai đã khiến bà cụ Tứ phấp phỏng. Có lẽ bà cụ Tứ đã linh cảm thấy có một cái gì đó quan trọng và bất thường đang chờ đợi. Nhìn thấy có một người đàn bà lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình… lại chào mình là u…., vẻ khép nép lạ lùng của thị khiến bà ngạc nhiên tột cùng.
  • Sự ngạc nhiên được thể hiện qua những câu hỏi dồn dập trong dòng độc thoại nội tâm, qua bước chân lập cập, run rẩy, qua việc bà đứng sững lại, rồi thậm chí như không tin nổi vào mắt mình, bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải… Chính sự ngạc nhiên tột cùng của bà cụ Tứ càng cho thấy cái nhìn tinh tường và trái tim nhạy cảm của người mẹ lập tức đã nhận ra có một điều gì đó thiêng liêng, lớn lao đang đến nỗi xót xa cho thân phận con người khi chỉ vì nạn đói và cảnh ngộ gia đình mà người mẹ tội nghiệp không thể tin được những điều bà đang phỏng đoán.
  • Sau khi nghe lời giới thiệu của con trai: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi…, bà lão cúi đầu nín lặng… bà đã hiểu ra bao nhiêu là cơ sự. Có biết bao nhiêu thấu hiểu, bao nhiêu nỗi niềm trong cái cúi đầu nín lặng, trong sự chấp nhận ngậm ngùi của bà. Người mẹ từng trải đã hiểu tất cả những uẩn khúc, những éo le trong việc nhặt vợ của con, hình dung được cảnh ngộ của người vợ nhặt, đó là những cơ sự bà đã đoán ra mà không nỡ hỏi, những điều con bà đang nghĩ tới mà không nỡ nói, những điều đang làm người đàn bà xa lạ, đói rách kia sợ hãi, tủi hổ, bẽ bàng. Trong hai chữ cơ sự ấy là tất cả những oái oăm, bi hài của cảnh ngộ, những cay đắng, trớ trêu của duyên kiếp – sự nín lặng của bà cụ Tứ không chỉ cho thấy sự từng trải mà con là biểu hiện rõ nhất của trái tim nhân hậu.

- Khác với anh con trai vô tâm, sự kiện Tràng nhặt vợ khiến bà cụ Tứ chìm đắm trong những nồi niềm, vừa ai oán vừa xót thương, vừa tủi phận.

  • Bà mừng vì con có được vợ mà vẫn trăn trở về bổn phận làm mẹ, vần buồn tủi vì số kiếp đứa con mình thật bất hạnh khi chẳng được cha mẹ lo dựng vợ gả chồng cho đàng hoàng tử tế, mở mặt mở mày, phải đi nhặt vợ một cách éo le, chua xót; lại càng lo lắng vì cảnh con lấy vợ giữa những ngày đói quay đói quắt, biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
  • Trong lòng bà ngổn ngang với dòng hồi tưởng về những năm tháng dài dằng dặc của quá khứ, với những cay đắng chồng chất trong cuộc đời của bà, của người chồng và đứa con gái đã mất; những buồn tủi về tình cảnh của mẹ con bà trong hiện tại, những lo lắng về tương lai…; nhưng dù mừng hay tủi, buồn bã hay lo lắng, mọi ý nghĩ và nỗi niềm cho con trai, bà cũng đồng thời thông cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà đều chỉ xuất phát từ tấm lòng thương yêu vô bờ bến.
  • Từ chỗ xót xa cho con trai, bà cũng đồng thời thông cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà xa lạ nay đã trở thành con dâu của mình. Không một lời phản đối hay tra xét, cũng không hề rẻ rúng hay coi thường người đàn bà đói rách tả tơi theo không con trai mình, bà chỉ đăm đăm nhìn đứa con dâu đang bối rối vân vê tà áo đã rách bợt… lòng đầy thương xót, ngay trong tâm tư, bà đã mặc nhiên công nhận nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Sự chấp nhận ấy cho thấy bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả gánh nặng sẽ chồng chất thêm của sự đói khát, nỗi ám ảnh ghê gớm của chết chóc để đùm bọc cưu mang một con người khốn khổ, nhất là để vun đắp cho hạnh phúc của con trai. 

- Những chi tiết miêu tả thái độ, cách nói năng, cư xử của bà cụ Tứ cũng làm đậm thêm vẻ đẹp trong tấm lòng nhân hậu của bà. Từ cách bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói, rồi lại hạ thấp giọng xuống thân mật, nhất là cách dùng hai chữ các con để gọi con và dâu một biểu hiện chắc chắn của sự chấp nhận với nàng dâu mới….; từ câu nói xót xa: chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá cho đến lời giục nàng dâu: con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân… - đó là những cách cư xử cho thấy sự tinh tế và nhân hậu trong lòng người mẹ nghèo, bà muốn bằng thái độ, giọng nói và cả cách xưng hô để làm vợi đi những căng thẳng, lo lắng của con cái, nhất là những tủi hổ bẽ bàng của người đàn bà gặp cảnh éo le đói khát mà phải theo không con trai mình. Tới ba lần, Kim Lân miêu tả dòng nươc mắt của bà cụ Tứ - những dòng nước mắt của buồn vui, thương xót, tủi cực, nước mắt của tình người nhân hậu, vị tha.

- Trong ba nhân vật chính của truyện ngắn. Bà cụ Tứ cũng là người thể hiện rõ nhất niềm tin niềm hi vọng vào tương lai.

  • Khốn khổ vì gánh nặng cuộc sống, không thể né được tiếng thở dài chua xót trước việc nhặt vợ của con, thậm chí, hơn một lần bà đã khóc vì tủi cực, lo lắng, vậy mà bà vẫn đồng tình với việc làm có vẻ hoang phí, bốc đồng của con trai khi thấy Tràng mua dầu thắp đèn. Với câu nói: thắp lên một tí cho sáng sủa, bà đã không chỉ thể hiện sự trân trọng với hạnh phúc của con cái mà có lẽ còn bộc lộ một niềm tin dẫu là vu vơ, mơ hồ về sự sáng sủa hơn trong cuộc đời.
  • Nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh… rạng rỡ và dáng vẻ xăm xắn của bà trong sáng ngày hôm sau khi cùng con dâu mới thu dọn, quét tước sân vườn, nhà cửa đã cho thấy ý thức vun đắp cuộc sống gia đình cùng niềm hi vọng cho cuộc đời của mấy mẹ con.
  • Bà cũng là người chủ động, nhiệt tình mang lại nhiều nhất niềm vui cho bữa ăn ngày đói. Mâm cơm lúc đầu, dù trông thật thảm hại khi giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn cháo nhưng dù sao vẫn là mâm cơm của con người, và bữa ăn của mấy mẹ con vẫn thật vui vẻ, đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau – từ cách nói dân đã quen thuộc về việc ngoảnh đi ngoảnh lại, chẳng mấy chốc có gà mà ăn! đến cách bà dựa vào một triết lí dân gian đầy sức thuyết phục để gieo vào lòng các con niềm tin về sự đổi đời bởi theo lẽ vần xoay của trời đất thì Ai giàu ba họ, ai khó ba đời! Bà đã động viên các con bằng những dự tính mà ai cũng biết là viển vông, xa vời trong lúc đó, nhưng nghe cách nói của bà, vẫn thấy dũng cảm khi cái đói hiện ra thê thảm đau đớn ở nồi cháo cám. Kim Lân đã miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ trong đoạn văn chua chát này bằng rất nhiều động từ: bà lật đật chạy xuống bếp lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc hơi nghi ngút… đặt cái nồi xuống… cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười…rồi múc và đưa cho các con những bát cháo cám!
  • Tất cả những việc này, bà làm bừng thái độ ân cần, đon đả, với nét mặt tươi cười, với những lời nói cố tỏ ra vui vẻ: chè khoán đấy, ngon đáo để…. Rồi đến khi không thể kéo dài cảnh đầm ấm ở nửa đầu bữa ăn, không thể tiếp tục giữ cho các con cảm giác vui vẻ hạnh phúc trong ngày đầu tiên của cuộc sống chồng vợ, cũng không thể trì hoãn giây phút cay đắng nhất của bữa ăn, không thể che giấu sự thật phũ phàng đã hiện lên trong bát cháo cám đắng chát, bà lại gắn gượng an ủi những đứa con đang tủi hổ… cắm đầu ăn cho xong lần: cháo cám đấy…làng nhiều nhà còn không có cám mà ăn… Chính sự dũng cảm và tình yêu thương mênh mông của bà cụ Tứ đã khiến thứ thức ăn của loài vật thấm đẫm tình nghĩa con người, ngời sáng nhân cách con người, giúp các con bà vơi đi phần nào nỗi tủi hờn, chua xót khi thấu hiểu tình yêu thương, sự gắng gượng đầy bản lĩnh của mẹ, giúp họ có sức mạnh đối mặt với khốn khổ, vượt lên trên cái đói, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng.

4. Nhân vật Thị

4.1. Thân thế, lai lịch:

- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa.

- Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi.

- Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.

4.2. Ngoại hình:

- Người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm như một biểu tượng thê thảm của nạn đói.

+ Nạn đói đã hủy hoại ghê gớm hình hài, dáng vẻ thị. Chiếc nón rách tàng, bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa… tạo ra sự tương hợp xót xa với khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, với bộ ngực gày lép và hai con mắt trũng xoáy…

+ Dáng vẻ cong cớn của người đàn bà chao chát chỏng lỏn… ngồi vêu ở của kho thóc.

  • Lần đầu, thị cong cớn: Có khối cơm trắng với giò đấy… để tỏ ra mình khôn ngoan, không bị mắc lỡm một câu hò có những hình ảnh thật hấp dẫn về cơm trắng với giò – nhưng chính cái việc cố tỏ ra khôn ngoan ấy lại lại hiện ra những hi vọng thảm hại về miếng ăn;
  • Lần sau thị lại cong cớn gạt phăng miếng trầu xã giao, lễ nghĩa để kiếm bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dầy trống rỗng. Bất chấp lí trí, cái đói vẫn xui khiến thị hi vọng về miếng ăn có thật ở một gười đàn ông xa lạ, vẫn khiến người đàn bà đói khát ấy ton ton ra đẩy xe cho Tràng, thậm chí thị còn cười tít… tình tứ - cái tình tứ tuyệt đối không phải vì sự lẳng lơ, cũng không xuất phát từ sự quyến rũ của Tràng mà từ sự hấp dẫn không cưỡng nổi của miếng ăn thấp thoáng trong câu hò vu vơ!

+ Vẻ sưng sỉa khi Tràng lỡ hẹn, vẻ đon đả cùng ánh mắt sáng lên khi được mời ăn, động tác cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì… đó là hình ảnh chua xót, thảm hại của con người đàn bà đã bị cái đói hủy hoại không chỉ hình hài, dáng vẻ mà cả nhân cách cùng những phép tác xã giao, những ý tứ, lễ nghĩa tối thiểu.

4.3. Diễn biến tâm trạng

- Nếu câu nói cong cớn có khối cơm trắng với giò đấy để tỏ ra mình khôn ngoan, cũng là để dập tắt hi vọng trong lòng mình về miếng ăn đầy hấp dẫn thì ngay sau đó, câu hỏi: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói đùa đấy?” lại phấp phỏng niềm hi vọng về miếng ăn có thật, dù nỗi thèm khát đã cố giấu trong cách nói có vẻ như đừa cợt, chớt nhả- câu hỏi như đùa mà sự đói khát lại thật đến đau lòng. Xỉa xói Tràng vì đói khát: “Điêu, người thế mà điêu…”; cong cớn gạt miếng trầu cũng vì đói khát: “Ăn gì thì ăn, chả ăn giầu…”; sung sướng khi nhận thấy khả năng được mời ăn dù vẫn không dám tin là thật: “Ăn thật nhá…”; mãn nguyện sau khi no nê: “Hà, ngon…”; cuối cùng là một câu nói đùa nhạt nhẽo để chữa ngượng: “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố…”

⇒ Tất cả những câu nói của thị đều thể hiện chân thực nỗi nhục nhã, xấu hổ khi lăn xả vào miếng ăn nhưng lại không thể kiếm chế sự thèm khát miếng ăn, không chế ngự được sự dày vò, gào thét của cái dạ dày đang đói khát.

⇒ Sự đói khát đã hủy hoại nhân cách của thị một cách xót xa: một người đàn bà phải bỏ những ý tứ, những phép tắc xã giao, những sĩ diện, xấu hổ, bấu víu vào một câu hò đùa để kiếm miếng ăn thật; phải gạt phăng miếng trầu lễ nghĩa để chọn bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dầy trống rỗng; phải vứt bỏ cả lễ giáo và sự thận trọng, bám vào một câu đùa tầm phơ tầm phào để theo không một người đàn ông xa lạ, mong tìm chốn nương thân, hi vọng chạy trống cái đói. Giá trị và nhân cách con người bị hạ giá thê thảm khi chỉ cần một câu hò bâng quơ, bốn bát bánh đúc, câu đùa tầm phơ tầm phào, thị đã trở thành vợ theo, vợ nhặt- người vợ được lấy về do một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm, người vợ được nhặt về như cỏ rác.

- Nhưng người vợ nhặt cũng là nhân vật được Kim Lân gửi gắm niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người ngay khi bị đẩy xuống đáy vực của đói khát.

+ Ngay khi miêu tả người đàn bà phải lăn xả vào Tràng để kiếm miếng ăn, Kim Lân vẫn làm hiện ra nỗi xấu hổ, khổ sở của một nhân cách bị vùi dập vì đói khát ngay trong cách nói cố tổ đáo để: khi ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, thị cười tít: “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì?”; đến hôm được Tràng mời ăn, thị đon đả: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn chứ sợ gì?” – việc phủ định cái sợ lại cho thấy thị đang sợ hãi, đang xấu hổ, đang tự trấn an chính mình, và khi con người con biết sợ, biết nhục thì cũng có nghĩa là họ chưa bị hủy hoại hoàn toàn lòng tự trọng, chưa mất hết ý thức về liêm sỉ.

+ Từ lúc bám vào câu đùa của Tràng, bất chấp tất cả những thận trọng và lễ giáo, chấp nhận làm người vợ nhặt theo không Tràng về nhà mong chạy cái đói, thị đã có những thay đổi thật kì lạ trong cả dáng vẻ, thái độ lẫn lời nói, việc làm.

  • Hình ảnh người đàn bà đi sau hắn chừng ba, bốn bước… cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… vẻ rón rén, e thẹn… trong buổi chiều đi về nhà Tràng thực sự là hình ảnh của một người vợ ý tứ, nết na và phép tắc, không còn mảy may dáng vẻ của cô gái chỏng lỏn, cong cớn ngoài kho gạo hôm qua.
  • Về tới nhà Tràng, thị tỏ ra rất ý tứ khi chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường, khi khép nép trước mặt bà cụ Tứ. Đặc biệt, hình ảnh người đàn và hiền hậu đúng mực khi cùng mẹ chồng thu dọn, quét nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, quang quẻ trong buổi sáng hôm sau cũng như đều cho thấy thị đã hoàn toàn thay đổi, hay đúng hơn là thị đã trở về với bản chất tốt đẹp của mình trong vai trò một người vợ hiền, dâu thảo, ý tứ, nết na, chăm chỉ vun đắp cho cái tổ ấm hạnh phúc của mình.

+ Không được miêu tả trong độc thoại nội tâm như Tràng và bà cụ Tứ nhưng qua những chi tiết miêu tả dáng vẻ, thái độ, cử chỉ, hành động thật tinh tế, Kim Lân vẫn giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp trong tâm hồn người đàn bà khốn khổ vì đói khát.

  • Khi đứng trước cửa nhà Tràng, đưa mắt nhìn toàn cảnh cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, người đàn bà không nén nổi sự thất vọng, cảm giác ngao ngán, nỗi tủi hổ, bẽ bàng.
  • Tất cả những cảm giác ấy hiện rõ trong việc thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gày lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài – thị đã bỏ qua cả lễ giáo, sĩ diện và sự thận trọng, theo không một người đàn ông xa lạ, thô kệch, vụng về những mong chạy trốn cái đói, vậy mà bây giờ, khi xuống đến nấc thang cuối cùng của sự hạ giá nhân cách, cái đói hiện ra trong quang cảnh thảm hại của ngôi nhà tuềnh toàng, rách nát.
  • Thị hoàn toàn có thể quay đi khi không tìm thấy điều mình cần trong hoàn cảnh khốn khổ, những điều quý giá hơn cả miếng ăn trong ngôi nhà rúm ró ấy, đó là tấm lòng nhân hậu của những người sẵn lòng cưu mang, đùm bọc thị khi chính họ cũng đang đói khát. Tấm lòng ấy có lẽ đã khiến thị ngạc nhiên, xúc động và hiểu rằng, khi bước qua chiếc cổng tre nhà Tràng, trở thành người vợ hiền dâu thảo, thu vén đảm đang, mang lại hạnh phúc cho những con người nhân hậu, thị sẽ tìm thấy cho mình niềm vui được làm vợ, làm mẹ, được có một mái ấm gia đình, được hạnh phúc. Dù vẫn không giấu nổi sự cay đắng, thất vọng và tủi hổ trong cái nhếch mép cười nhạt nhẽo, trong vẻ mặt bần thần hay tiếng thở dài buồn bã… nhưng cách ứng xử đúng mực trong dáng vẻ một người đàn bà hiền thục khiến người đọc hiểu rằng thị đang cố gắng xứng đáng mới tình yêu thương của những con người nhân hậu, và bằng cách đó, thị bắt đầu tìm thấy hạnh phúc trong ngôi nhà rách nát mà ấm áp tình người.
  • Thị đã mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho những con người từ nay sẽ gắn bó với thị trong suốt cuộc đời: Tràng thấy một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng, bà cụ Tứ sung sướng với nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh… rạng rỡ.
  • Đặc biệt, thị còn mang đến cho ngôi nhà tuyềnh toàng, rách nát của Tràng một sức sống mới mẻ, kì lạ: những đống rác mùn trong sân đã được hót gọn, dây quần áo vắt khươn mươi niên được phơi hong khô ráo, hai cái ang bao lâu nay vẫn khô cong bây giờ nước đầy ăm ắp… Chi tiết thị đón lấy bát cháo cám từ tay mẹ chồng, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng cho thấy người đàn bà này đã hiểu những cố gắng và cả tấm lòng của người mẹ, thị không chỉ cư xử ý tứ mà còn có một tấm lòng trân trọng nghĩa tình, đặc biệt là một bản lĩnh dũng cảm. Cử chỉ và thái độ điềm nhiên của thị đã làm vơi dịu đi rất nhiều nỗi cay cực, chua xót, tủi hổ của bà mẹ chồng nhân hậu.

+ Trong ba nhân vật của truyện ngắn, thị cũng là người đầu tiên nhen nhóm niềm hi vọng về sự thay đổi cuộc đời nhắc đến chuyện Việt Minh lãnh đạo nhân dân đi phá kho thóc của Nhật ở Thái Nguyên, Bắc Giang và câu chuyện kì diệu của những con người cùng ở dưới bầu trời này, trong đất nươc này đã gieo vào lòng những người đang ngồi ăn cháo cám niềm hi vọng mãnh liệt về sự đổi đời, về một tương lai ấm no, tươi sáng.

III. Đánh giá 

1. Nội dung

- Thông qua câu chuyện nhặt vợ bi hài, cảm động của Tràng, một người nông dân nghèo khổ trong nạn đói 1945, nhà văn Kim Lân đã đưa đến cho tác phẩm của mình những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, thể hiện sinh động ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng… 

2. Nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

– Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn:

– Dựng cảnh chân thật, sinh động, đặc sắc: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói,…

– Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, bộc lộ tự nhiên, chân thật.

– Ngôn ngữ nông thôn mộc mạc, giản dị, gần với khẩu ngữ nhưng được chọn lọc kĩ, tạo nên sức gợi.

D. Gợi ý kết bài 

Mẫu số 1

Nhà văn Nguyễn Khải nhận xét: "Là học trò của cụ Nguyễn Tuân, tôi vẫn không tin Nguyễn Tuân viết " Chữ người tử tù" cũng như Kim Lân viết "Làng" và "Vợ nhặt". Đó không phải là người viết mà là thần viết. Thần mượn tay người để viết nên những trang bất hủ". Xét riêng truyện ngắn "Vợ nhặt", Kim Lân quả xứng với lời khen đó. Thiên truyện về cái đói, cái chết mà làm lộ ra sự sống, lộ ra chất người kì diệu. Tư tưởng nhân văn sâu sắc đó không phải là truyện ngắn ồn ào mà được diễn đạt thấm thía qua nghệ thuật văn xuôi đặc sắc đã đưa Kim Lân vào hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học hiện đại. Đọc "Vợ nhặt", không ai không bị hấp dẫn bởi một tình huống hết sức độc đáo và bi hài mà cũng đậm chất nhân văn, thấm đẫm tình người.

Mẫu số 2

Thành công của nhà văn Kim Lân là thành công khi đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tinh tế của con người trong hoàn cảnh đặc biệt nhất. Và vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ luôn hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Tất cả tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. Trong tiểu thuyết nổi tiếng “Thép đã tôi thế đấy”, nhà văn Nga Nhicolai Oxtropxki đã để cho nhân vật của mình ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa.” Và Kim Lân đã biến “Vợ nhặt trở thành bài ca về tình người ở những kẻ nghèo khổ, “biết sống” trọn vẹn chữ người ngay giữa chốn địa ngục trần gian.

E. Tư liệu liên hệ, mở rộng

1. “Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lại, vẫn muốn sống, sống cho ta con người” ( Kim Lân – 1985 )

2. "Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói công yên 
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Báng nghiến nhựa đường nghe sào sạo
- Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực..."
                                      (Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao)

3. "Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có." (Một bữa no - Nam Cao)

4. "Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời... Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy không một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: Truyện ngắn." (Trần Ninh Hồ)

5. "Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. (Dẫn theo Hoài Việt – Nhà văn trong nhà trường: Kim Lân, NXB Giáo dục, 1999, tr.39).

6. Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn. (Nguyên Hồng)

7. Nhà văn Kim Lân chỉ viết những gì mình thuộc, không tuyên ngôn, không phô trương ồn ào mà chỉ muốn là một người viết khiêm nhường. (Phong Lê)

8. Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc. (Kim Lân)

9. Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này, viết lách được cái gì, thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn. (Nguyễn Khải)

  • 54 lượt xem
Sắp xếp theo