- Không có Đảng thì không có thơ anh. Tâm hồn anh, máu thịt anh, nội dung các tác phẩm của anh, cách nhìn và bút pháp của anh nữa, có thể nói tất cả là do Đảng đã cho anh. Anh là một nhà thơ cộng sản.
Tôi nghĩ: người ta thích một thi sĩ nào, đầu tiên là vì cái lí tưởng, cái khuynh hướng của anh ấy. Người đọc, nhất là thanh niên vào đời, đứng trước cái ngã năm, ngã bảy của cuộc sống, thường rất phân vân. Lúc này họ rất cần người bày cho họ sống sao ra sống. Họ tìm đến những người cộng sản, những người yêu nước, những thân nhân. Họ tìm đến Tố Hữu. Giữa bao ngọn cờ sai lạc dưới thời Pháp thuộc, anh là lá cờ Đảng nêu lên thành thơ cái lí tưởng, cái triết học, cái lối sống duy nhất đúng bấy giờ.
(Chế Lan Viên, Tố Hữu - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2000)
- Con đường ngót hai mươi năm nay của Tố Hữu đã đi là một con đường vinh quang: nhà thi sĩ làm cách mạng, và nhà cách mạng làm thơ, nhà thơ là con đẻ của cách mạng, lớn lên và kết tinh cuộc cách mạng. Cả cuộc đời của Tố Hữu đến nay là thủy tinh trong sáng: từ tuổi thiếu niên đi học đã hoài bão phản phong, phản đế, tuổi thanh niên là bao năm tù đày, tuổi tráng niên mải miết dựng xây, thực hành, lãnh đạo, cái say mê vui thú của Tố Hữu là làm cách mạng, cái hơi thở tự nhiên của tâm hồn Tố Hữu là hi sinh; thơ Tố Hữu hay vì cuộc đời và tâm hồn của Tố Hữu đẹp, cuộc đời Tố Hữu là một bài thơ Cách mạng rồi.
Thơ Tố Hữu từ cuộc đời cách mạng của thi sĩ và từ phong trào cách mạng của nhân dân mà ra, trở lại góp sức đẩy cho cách mạng lớn mạnh; cách mạng ngày càng thắng lợi, càng to lớn đồng thời đưa tài thơ của Tố Hữu nở dần đến chỗ tròn đầy lộng lẫy. Đó là tương quan mật thiết giữa hành động và văn chương mà Tố Hữu là một điển hình rất đẹp.
(Xuân Diệu, Tố Hữu - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2000)
- Tố Hữu trước hết là một nhà thơ cách mạng. Cuộc đời ông, trái tim ông đã dành riêng cho Đảng phần nhiều […] Thơ ông dễ đi vào đại chúng cũng vì có tính dân tộc đậm đà. Người ta thường nói về màu sắc Việt Nam trog thế giới hình tượng của ông từ phong cảnh đất nước đến những con người, đặc biệt là hình tượng Bác Hồ, những bà mẹ, anh bộ đội,.. Bút pháp về cảnh, về người cũng có một cái gì đó rất Việt Nam: màu sắc tươi sáng mà dịu dàng, loáng thoáng mấy nét chấm phá thanh thoát và tài hoa, không thiên về tả hình xác của thế giới, mà muốn truyền được linh hồn của cảnh vật.
(Nguyễn Đăng Mạnh, Tố Hữu - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2000)
- Tôi cho rằng làm thơ cách mạng cũng là một sự hi sinh. (Trong bài hồi kí Nguyễn Đình Thi trong tôi và Ngyễn Đình Thi ngoài tôi, sau khi kẻ chuyện Nguyễn Đình Thi phải sửa chữa tập thơ Người chiến sĩ theo ý kiến của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đã nói với Hoàng Cầm: “Trí thức văn nghệ sĩ chúng mình đã đi với cách mạng vô sản thì ít nhiều cũng phải hy sinh cái bản ngã của mình dẫu là bản ngã tốt đẹp!”) Khi đã tự nguyện biến thi ca của mình thành vũ khí tuyên truyền cho cách mạng thì nó không được, không thể được ứng xử như là thơ thông thường. Nó phải làm nhiệm vụ mà vũ khí đòi hỏi. Bằng tài thơ của mình Tố Hữu đã góp phần tạo nên một nền thơ cách mạng trong nền văn học cách mạng Việt Nam. Và các nhà thơ khác, như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi…tất cả đều phải có phần hi sinh như thế. Thế hệ các nhà thơ trẻ trong chống Mĩ cứu nước như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh…đã vượt qua được những trói buộc ban đầu để thơ họ vẫn có phần tuyên truyền chính trị, nhưng không phải hoàn toàn là thơ chính trị. Nhưng đó là một đề tài khác. Thơ Tố Hữu đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của nó. Thơ ông sẽ còn là đề tài bàn đi bàn lại nhiều lần. Đó sẽ là cuộc sống mai hậu không bao giờ dứt của thơ ông.
(Trần Đình Sử - Những chặng đường tiếp nhận thơ Tố Hữu của tôi, 2022)
- Đến bài thơ Việt Bắc, lại là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. Với bài này, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu chín rộ. Chúng ta vẫn thấy cái giọng thơ thân mật ấm cúng của Tố Hữu: ngợi ca Việt Bắc bằng lời tiễn đưa nhau của một đôi lứa tượng trưng cho miền ngược và miền xuôi; lơi hỏi, lời đáp; lời nói ra, lời đồng vọng; lời dặn dò, hẹn hò; nhờ sáng tạo ra bối cảnh “ngược xuôi đôi mặt một lời song song” như vậy, tác giả mới nói hết được ân tình. Nhưng hòa hợp với cái thân mật ấm cúng kia, chúng ta còn thấy bài thơ lộng lẫy, nhiều đoạn tuyệt đẹp; không phải một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều ngọn bút cùng nở một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng nói chiến đấu, gian khổ, quyết tâm, lại là cái văn chương chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc; cái văn chương mà có người sợ khô khan, lại là văn chương thật nhuần nhị. Con người cách mạng trong Việt Bắc là người tình nhân mặn nồng, người chồng chung thủy, người con hiếu thảo, người bạn thiết cốt, người cán bộ tận tụy, là con người mang cái tình mến yêu của Tố Hữu đến cao độ, những lời nói ra làm mọi người khóc được, cười được, xúc động gan ruột người ta.
(Xuân Diệu, Tố Hữu - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2000)
- Nhà thơ chào Việt Bắc trước khi về xuôi. Anh gọi Việt Bắc là mình, như một người yêu hay đúng hơn như một người bạn đời đã cùng nhau gánh vác nhiều khó nhọc, chia sẻ niềm vui nỗi buồn, nhiều tình và nhất là nhiều nghĩa với nhau. Cái nghĩa ấy từ những ngày gian khổ nhất, mười mấy năm trước khi lực lượng cách mạng mới nhóm lên giữa rừng thiêng, những ngày chiến khu Việt Minh “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Những người dân Việt Bắc cực khổ là những người trung thành nhất với cách mạng “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Giữa cuộc đời gian khổ, cái tình nghĩa cách mạng là ấm áp nhất, nó đẹp nhất. Cái nghĩa tình từ thuở đầu cách mạng ấy càng sâu sắc hơn trong kháng chiến. Những người dân Việt Bắc sống vẫn chật vật vô cùng giữa cảnh thiên nhiên lộng lẫy mà gao gắt. Nhà thơ nhìn thấm thía vào cái anh dũng thầm lặng hàng ngày của quần chúng lao động.
(Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2000)
– Cũng là thể thơ lục bát, song Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu chủ thanh là giọng điệu suy nghiệm, cảnh giới, nhuốm sắc màu trầm tư thế sự về đạo lí, về tình người nên thấm sâu vào hồn chất cội nguồn truyền thống. Còn Việt Bắc của Tố Hữu, ngoài những yếu tố dân tộc, còn là giọng hùng ca, điệu tình ca được khởi phát lên từ âm vang chiến thắng của dân tộc, nên nhuốm hơi thở thời đại, đượm chất liệu lịch sử, hào khí sử thi…
Tự bạch về tác phẩm của mình, nhà thơ Tố Hữu cho biết: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi” (Nhà văn nói về tác phẩm). Có thể nói, Việt Bắc là khúc tình ca và là “khúc hùng ca của cách mạng”, là “nguồn tình cảm thiết tha của con người Việt Nam trong kháng chiến”, là “sự cảm nhận của nhà thơ về nhân dân và dân tộc, với vẻ đẹp bình dị và sâu xa, với sức mạnh bền bỉ, tiềm tàng” (Từ điển Văn học, bộ mới, NXB Thế giới, tr.1994).
Về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu, Hoài Thanh đã từng nhận định ngắn gọn nhưng khá khái quát: “Thơ Tố Hữu, về nội dung, đề cập đến những vấn đề lớn của dân tộc và quần chúng. Về phong cách, nó giàu tính dân tộc và tính quần chúng”. Trong 5 chặng đường sáng tác của Nguyễn Kinh Thành (tên khai sinh của nhà thơ xứ Huế), nếu tập thơ đầu tay Từ ấy (1937 – 1946) và hai tập thơ ở chặng cuối (Một tiếng đờn – 1992, Ta với ta – 1999) mang đậm chất thế sự, khắc họa rõ nét cái tôi cá nhân. Thì các tập thơ Việt Bắc(1946 – 1954), Gió lộng (1955 -1961), Ra trận (1962 – 1971) và Máu và hoa (1972 – 1977) thể hiện nhiều nhất các yếu tố dân tộc. Từ những cái “tôi” trong tập thơ Từ ấy: “Đâu tự ngày xưa, tôi nhớ tôi/ Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” (Nhớ đồng), đã chuyển đổi thành cái “ta”, cái “chúng ta” chung của cả dân tộc: “Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp/ Rắn như thép, vững như đồng…” (Ta đi tới). Trong cảm hứng chung đó, kết tinh rõ nhất tính dân tộc trong thơ Tố Hữu là ở tập thơ Việt Bắc, tập thơ mà thi sĩ Xuân Diệu đã từng đánh giá là “đỉnh cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên”. Và Việt Bắc, bài thơ được lấy nhan đề đặt tên cho tập thơ, viết cuối giai đoạn sáng tác này là một ví dụ tiêu biểu.
Dân tộc song rất hiện đại. Tính hiện đại và dân tộc hòa quyện với nhau, hiện đại xây dựng trên cơ sở dân tộc.Chẳng hạn, nếu chỉ nhìn Nguyễn Bính ở góc độ nhà thơ ‘chân quê” là chưa thấy hết cái hiện đại, cái vị trí của một nhà “thơ mới” trong ông. Bởi vì, ngoài những thể thơ ưa dùng là lục bát, bảy chữ của dân tộc, thơ Nguyễn Bính dù chất chứa một hồn quê dân dã song vẫn không giấu được một cái tôi “rạn vỡ”, cái buồn “lạc lõng” nhuốm màu thế sự. Cách cảm mới về hồn quê đã đem đến màu sắc dân tộc mà hiện đại của thơ Nguyễn Bính. Trường hợp thơ Tố Hữu ở cũng vậy. Ngày nay mà đọc nhận định: “Thơ Tố Hữu kế thừa tinh hoa phong trào Thơ mới” thì ai cũng xem là bình thường. Nhưng “đêm trước” Đại hội Đảng lần VI, 1986, là một “cấm kỵ”. Bởi vì, ai lại dám cho một “cây đại thụ thơ ca cách mạng” mà đi “kế thừa” phong trào thơ lúc ấy bị cho là “ủy mị, tiêu cực”. Nhận định này, chính Xuân Diệu đã thấy và muốn nói trước đó, nhưng “không tiện”. Sau này, nhiều chuyên luận, trong đó có của GS.Lê Đình Kỵ (Trường ĐH Tổng hợp TP.HCM trước đây), đã khẳng định điều này. Nhưng thơ mới có phải là một “quái thai”, không có cội nguồn? Trong Một thời đại trong thi ca, chính Hoài Thanh đã khẳng định: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng ấy trong mấy mươi thế kỉ và chia sẻ vui buồn với ông cha… Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt”. Tôi nói hơi dài như trên để khẳng định lại một lần nữa về tính dân tộc và hiện đại trong thơ Tố Hữu. Chất dân tộc ở bút pháp trữ tình đậm đà, tính hiện đại ở nội dung hào hùng sử thi.
Bài thơ Việt Bắcra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: Tháng 10 năm 1954, cơ quan cách mạng từ chiến khu Việt Bắc về lại Hà Nội. Sự kiện lịch sử ấy được Tố Hữu viết lại bằng thơ. Viết bằng thơ thì dĩ nhiên phải lựa chọn thể thơ, xây dựng cấu tứ, lựa chọn hình ảnh. Viết về kháng chiến, về nhân dân thì còn gì hay hơn là chọn thể lục bát. Chẳng phải Truyện Kiều của Nguyễn Du với nhịp sáu tám từng là “hồn dân tộc” (Chế Lan Viên) đó ư. Mà chia tay thì phải có người đi – kẻ ở, phải kiểu như ca dao “Mình về ta chẳng cho về/ Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ…”. Vậy nên mới có kiểu cấu tứ đối đáp “mình – ta” bằng sự “phân thân” của chính cảm xúc tác giả. Và toàn bộ bài thơ Việt Bắc có 5 lượt đối đáp giao duyên: “mình – ta”, có phần giống hình tượng sóng đôi “nước – non” trong Thề non nước của Tản Đà.
Có điều, cũng là thể lục bát, nhưng đọc Việt Bắc ta không thấy cái nao nao bình lặng nỗi nhớ của ca dao: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Cũng ít thấy cái giọng điệu tự sự ngẫm nghĩ chuyện đời: “Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh” của cụ Nguyễn Tiên Điền trong Đoạn trường tân thanh. Mà đọc Việt Bắc, là đọc cái diết da của nỗi nhớ, cùng với sự hối hả, rộn ràng, đọc “những câu hỏi dồn dập, nặng nghĩa, nặng suy nghĩ, ray rứt…” (Phê bình văn học, NXB Văn nghệ, tr.47). Cũng là thể thơ lục bát, song Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) chủ thanh là giọng điệu suy ngẫm, cảnh giới, nhuốm sắc màu thế sự, đạo lí, tình người nên thấm sâu vào hồn chất dân tộc, truyền thống. Còn Việt Bắc của Tố Hữu là giọng hùng ca, tình ca được khởi phát lên từ âm vang chiến thắng của dân tộc nên nhuốm hơi thở thời sự, đượm chất liệu lịch sử, không khí sử thi… làm nên chất hiện đại cho bài thơ. Vì thế, từ câu thơ 8 chữ của thể thơ lục bát với nhịp chẵn 2/2/2/2 đã được Tố Hữu sử dụng ngắt đôi theo nhịp 4/4 nhanh, khỏe, gấp, rộn ràn, xao động ngay từ những câu mở đầu, chi phối toàn bộ âm hưởng toàn bài thơ: “Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy – thiết tha mặn nồng/ Mình về mình có nhớ không/ Nhìn cây nhớ núi,- nhìn sông nhớ nguồn”. Đúng như GS Trần Đình Sử từng nhận xét: “Các câu tám, câu nào cũng đối cân khá tương xứng nhau về cấu trúc, chẳng những nhấn mạnh cho ý, mà còn tạo thành vẻ đẹp nhịp nhàng” (Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, tr.259).
Bây giờ xin nói cụ thể về một đoạn thơ hay nhất trong bài, tiêu biểu cho vẻ đẹp cổ điển và rất hiện đại. Đó là đoạn thơ 10 câu nói về cảnh vật và con người Việt Bắc trong kháng chiến: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người/ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng/ Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang/ Ve kêu rừng phách đổ vàng/ nhớ cô em gái hái mang một mình/ Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Giả dụ như Tố Hữu không viết cả một bài thơ dài đến 150 câu lục bát, mà chỉ viết 10 câu thơ này thôi thì đã coi như một bài thơ trọn vẹn về kỷ niệm Việt Bắc. Có phần mở khái quát ở hai câu đầu và 4 cặp câu lục bát triển khai theo phép lặp cấu trúc. Ở mỗi cặp câu được triển khai theo bút pháp cổ điển của bức tranh tứ bình trung đại (xuân, hạ, thu, đông), một câu tả hoa, một câu tả người. Có điều con người ở đây không phải là “ngư, tiều, canh, mục” mà là những con người lao động cụ thể về không gian, thời gian. Thiên nhiên hiện lên tươi đẹp, sinh động, đa màu sắc, được gợi lại bằng bút pháp chấm phá, đặc tả. Con người hiện lên vừa cụ thể vừa phiếm chỉ; cần cù trong lao động, thủy chung trong kháng chiến. Hai câu thơ cuối vừa là bức tranh “rừng thu” trong tứ mùa, nhưng có sự khái quát, giàu ý nghĩa tượng trưng, ẩn dụ sâu sắc.
Tinh ý hơn sẽ thấy điều này, Tố Hữu không miêu tả theo trình tự quy luật bốn mùa xuân – hạ – thu – đông, mà ông kết thúc đoạn thơ bằng hình ảnh mùa thu: “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Viết như thế là hay, là ý tưởng, phù hớp với quan niệm của thơ ca cách mạng về mùa thu. Từ mùa thu đẹp cổ điển trong thơ trung đại của Ngô Chi Lan (thế kỷ XV), của Nguyễn Khuyến; đến thu buồn tang tóc trong trong thơ mới với Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư; Mùa thu trong thơ cách mạng đã khoác lên màu áo mình một quan niệm mới: mùa của thắng lợi, mùa của hòa bình, được khởi sáng lên từ mùa thu Cách mạng tháng Tám, 1945. Mùa thu ấy đã làm nên “dáng hình” cho đất nước: “Mùa thu nay khác rồi/ Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi/ Gió thổi rừng tre phất phới/ Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết tha…” (Đất Nước, Nguyễn Đình Thi).
(Trần Ngọc Tuấn, 2020)
Đoạn trích Việt Bắc có cấu tứ kiểu ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến. Như vậy, nghệ thuật triển khai tứ thơ trong đoạn trích chính là sự liên tưởng, hồi tưởng về khoảng cách thời gian từ những năm 1940 – 1954. Nhà thơ đã chọn cách đối đáp giữa người cán bộ miền xuôi với người miền ngược để khơi dậy được một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Từ tình cảm thủy chung truyền thống của dân tộc, Tố Hữu đã nâng lên thành một tình cảm mới, in đậm nét thời đại, đó là ân tình cách mạng, tình cảm của người cách mạng – một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến. Tứ thơ trong Việt Bắc có ý nghĩa tượng trưng. Đó là lời ân cần dặn dò lòng sắt son chung thủy trong phút chia tay của người cán bộ xuôi về thành thị, với núi rừng, quê hương cách mạng. Đoạn trích được chia làm 11 khổ thơ với những nội dung xuyên suốt:
Trước tiên, khổ thơ thứ nhất, thứ hai là cảnh chia tay giữa người ra đi và người ở lại. Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”…
Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi. Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. Những người chiến sĩ cách mạng đến với núi rừng Việt Bắc trong giờ phút chia ly cũng đầy tâm trạng:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn nói nhưng giờ phút chia tay này họ chẳng biết nói gì với nhau. Cái “cầm tay” chứa chan bao tình cảm, như muốn truyền hơi ấm cho nhau. Không nói gì nhưng đã nói vạn lời.
Thứ hai, khổ thơ thứ ba là lời người ở lại gợi lại những khó khăn, gian khổ nhất từ những năm 1940 – 1945. Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết, Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” cho đến xác định như chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc. Giáo sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của tiếng Việt một cách hết sức tài tình.” Âm điệu thơ của Tố Hữu có đặc trưng riêng đó là sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Chất nhạc ngoài tài nghệ phối thanh còn ở cách gieo vần. Một nhà thơ giàu từ ngữ và am tường sâu sắc luật thơ. Có thể nói rằng nhạc điệu là yếu tố đi liền với ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Tố Hữu có một hơi thơ dân tộc trong âm điệu”. Có được điều ấy bởi lẽ Tố Hữu là nhà thơ có biệt tài trong việc phối hợp các âm thanh, từ ngữ, tiết tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ rất giàu nhạc điệu, có thể chứa đựng cảm xúc dân tộc, thể hiện được tâm hồn dân tộc qua từng giai đoạn cách mạng. Nhưng nhạc điệu trong thơ Tố Hữu là nhạc điệu sống mãi với lòng người, làm rung động cả trái tim và khối óc người nghe. Chính vì vậy, nhạc điệu trong thơ Tố Hữu mãi ngân nga trong lòng tâm hồn tác giả. Bởi “Thơ là đi giữa nhạc và ý, rơi vào cái vực ý thì thơ sâu nhưng lại dễ khô khan. Nếu rơi vào vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say lòng người nhưng không khéo lại nông cạn”. Việt Bắc là điệp khúc của nỗi nhớ:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. “Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù; Miếng cơm / mối thù; Trám / măng”. Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi, lối đối xứng tiểu đối, nó mang vẻ đẹp cổ điển, uyên bác.
Đến với thơ Tố Hữu, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống dân tộc, gần gũi với cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận xét: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh”. Bút pháp quần chúng ấy đã góp phần làm nên sắc thái dân tộc đậm đà trong thời Tố Hữu. Đó là hình ảnh trám bùi, măng mai, cảnh trăng lên đầu núi, bếp lửa nhà sàn… hết sức nồng ấm và luôn ăn sâu trong tâm khảm của con người Việt Nam:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa
Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi “mình” là “ta”, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhưng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “mình đi, mình có” là chỉ người về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: “mình” quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son: Mình đi, mình lại nhớ mình.
Thứ ba, khổ thơ thứ tư là lời đáp lại của người ra đi bằng lời nguyện ước, lời thề mặn mà, đinh ninh. Tấm lòng của họ luôn thủy chung, son sắt:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. “Mình” vừa là “ta”, “mình” cũng là người thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Đại từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến Việt Bắc cất lên như tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở người đi. Như vậy, biệt tài của Tố Hữu là ru người trong nhạc, đánh thức con người bằng ý thơ.
Thứ tư, khổ thơ thứ năm, lời người về đã trả lời, đáp lại lời người ra đi bằng cách nhắc lại nỗi nhớ “như nhớ người yêu” của mình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Có lẽ trước đó trong thơ Việt Nam, những hình ảnh hết sức quen thuộc với cuộc sống hằng ngày, tưởng như chẳng có gì đáng nói, lại đi vào thơ nhiều như vậy. Tất cả đã ùa vào thơ Tố Hữu một cách tự nhiên thoải mái để tạo nên một không khí dân tộc đậm đà. Và điều đáng nói hơn là dưới ngòi bút miêu tả tài tình của nhà thơ, chúng đã trở thành những hình tượng thơ sinh động, đem đến cho người đọc những xúc cảm sâu xa. Thơ Tố Hữu là thơ viết cho đại chúng, và điều làm nên “bút pháp quần chúng” trong thơ ông không chỉ vì những hình ảnh ấy quen thuộc, dễ hiểu, giản dị mà còn vì nó rất giàu sức biểu cảm cho nên dễ lắng sâu và lưu lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Targo từng nói: “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới.”. Tố Hữu đã làm được điều đó hơn nữa đã làm một cách rất xuất sắc. Trên những trang thơ của ông mà tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc là hình ảnh của thiên nhiên, con người Việt Nam. Những con người nghĩa tình, thủy chung son sắt dù trải bao khó khăn gian khổ vẫn luôn lạc quan, hướng về tương lai. Những con người Việt Nam hồn hậu, hiền lành nhưng rất anh dũng trong chiến đấu. Đó là hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp với núi, với sông với những tên đất, tên miền mang hồn thiêng của dân tộc nhưng cũng khắc nghiệt, chứa đầy bao hiểm nguy. Đọc Việt Bắc, ta có cảm giác như được nghe những lời ru từ thủa nhỏ của bà của mẹ bởi nhịp thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại. Bởi ngôn ngữ bắt rễ từ văn học dân gian. Bởi những hình ảnh thơ gần gũi, thân thương nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Tố Hữu thực sự đã mang hồn thiêng núi sông, tâm hồn dân tộc vào những lời thơ Việt Bắc. Bài thơ xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.
Thứ năm, khổ thơ thứ sáu, lời người ra đi gần như nhắc lại trong lời người ở về những kỉ niệm gắn bó để khẳng định không thể nào quên.Thì ra, nhớ da diết, nặng sâu là bắt nguồn từ những tình cảm quân dân gắn bó keo sơn. “Củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” là những hình ảnh thực của đời sống kháng chiến, gian khổ nhưng thấm đẫm tấm chân tình của đồng bào, của anh em đồng chí. Song có một hình ảnh đáng nhớ và cứ trở đi trở lại trong thơ Tố Hữu cũng như trong thơ kháng chiến, đó là hình ảnh người mẹ nghèo “nắng cháy lưng” vẫn địu con trèo đèo, vượt suối “bẻ từng bắp ngô” nuôi con, nuôi cán bộ. Nhớ cảnh, nhớ người mạch thơ bắt sang những hoạt động của cơ quan cán bộ, chiến sĩ ở chiến khu. Đó là nhớ về những lớp bình dân học vụ. Đời sống còn nhiều gian nan nhưng người chiến sĩ vẫn lạc quan, yêu đời, tiếng hát át tiếng bom. Còn nhớ mãi tiếng mõ rừng chiều, nhịp chày của cối giã gạo bên suối. Đây là bức tranh vừa thực vừa mộng, vừa thi vị vừa đơn sơ, đặc biệt con người Việt Bắc mộc mạc, giản dị, nghĩa tình, thủy chung.
Thứ sáu, đó là bức tranh tứ bình. Khổ thơ thứ bảy mở đầu bằng một câu hỏi: “Ta về, mình có nhớ ta”. Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giãi bày nỗi lòng của mình:
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diễn tả tâm trạng tha thiết củanhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con ngườiViệt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Vả lại, hoa và người hoà quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể không nói đến con người và ngược lại, những con người ấy đã ở trongmột thiên nhiên đẹp, gần gũi. Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình (xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hoạ một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn.
Trước tiên, bức tranh thứ nhất được bắt đầu bằng:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ (Cỏ non xanh rợn chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa; Nguyễn Du) tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan toả. Vì thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động. Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian qua bức tranh thứ hai:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Cách điệp âm (mơ/nở) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.
Xuân qua hè tới, bức tranh thứ ba:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Câu thơ mở đầu bằng âm thanh (ve kêu), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó thì đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ấy hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh.Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng. Việt Bắc là bài thơ hay, tứ thơ hấp dẫn của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ.
Thứ bảy, khổ thơ thứ tám, nhớ về Việt Bắc không chỉ có ân tình giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên mà nơi ấy còn là những kỉ niệm, những chứng tích chiến đấu và chiến thắng của dân tộc trong thời kì đầu cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Cuộc kháng Pháp của ta trường kì gian khổ, chín năm với bấy nhiêu ngày con người và thiên nhiên kề vai sát cánh bên nhau “ta cùng đánh Tây”. Rừng, hoa thơ mộng là thế nhưng khi giặc đến giặc lùng thì rừng núi giăng thành lũy sắt. Mỗi gốc cây, ngọn núi, con suối…dường như đều góp phần tạo ra trận địa rộng lớn. Với bộ đội thì rừng ôm trùm che chở “rừng che bộ đội”, với quân thù thì rừng thành thiên la địa võng “rừng vây quân thù”. Bởi rừng núi là của ta, là sức mạnh quê hương, bất khả xâm phạm, kẻ thù nào nhòm ngó tất sẽ bị đánh tơi bời. Cùng với con người, thiên nhiên Việt Bắc đã dự phần vào cuộc kháng chiến, góp công làm nên chiến thắng sau này.
Thứ tám, khổ thơ thứ chín, nhớ về giai đoạn cuối, không khí hào hùng của cuộc kháng chiến. Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây, bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích,những chiến công: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên.
Thứ chín, khổ thơ thứ mười, nhà thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Trung ương, Chính phủ trong hang núi dưới nắng trưa rực rỡ cờ đỏ sao vàngvề các mặt chính trị, y tế, xã hội, … để tôn vinh hình ảnh Việt Bắc – quê hương của cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi gửi gắm niềm tin yêu và hi vọng của những người Việt Nam yêu nước.
Cuối cùng, khổ thơ cuối của đoạn trích là hình ảnh Việt Bắc – Hồ Chí Minh, biểu tượng cội nguồn cách mạng,chính là ánh sáng soi đường cho cả dân tộc, xua tan bóng tối u ám của kẻ thù. Chính vì vậy, Việt Bắc là nơi nhân dân cả nước hướng về để nuôi dưỡng niềm tin, ý chí đem lại hòa bình, độc lập cho dân tộc. Lời thơ cũng là tiếng lòng của Tố Hữu với nhân dân và núi rừng Việt Bắc, với thủ đô kháng chiến một thời và với quá khứ vàng son của dân tộc, với Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc. Nhưng điều kì diệu là con người phi thường Hồ Chí Minh qua ngòi bút của Tố Hữu lại hết sức bình dị và gần gũi.
(Nguyễn Thị Thu Hằng, 2016, Luận văn thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn)