Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca

1. Khái quát chung

Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện để biểu hiện mang tính đặc trưng của văn chương.

M. Gorki từng viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ - công cụ chủ yếu của nó - và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống - là chất liệu của văn học”.

2. Đặc điểm

- Đặc điểm chung của văn học là tính chính xác, tính hàm súc và tính hình tượng. Tuy nhiên, ở mỗi thể loại, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi tác phẩm cũng có những vẻ đẹp riêng về ngôn ngữ.

⇒ Ngôn ngữ thơ ca có thể xem là tiêu biểu cho ngôn ngữ văn học bởi các đặc điểm như tính chính xác, tính hàm súc, tính hình tượng được thể hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ ca.

a. Sự trong sáng và chính xác

- Xuất phát từ một yêu cầu rất quan trọng đối với văn học là phải phản ánh hiện thực một cách chân thực, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca cũng được hình thành từ sự trong sáng và chính xác. Đó chính là khả năng biểu hiện đúng điều thi nhân muốn nói, miêu tả đúng cái mà tác giả cần tái hiện.

Ví dụ: Đọc tác phẩm “Tây Tiến” tuy không xuất hiện từ “chết” nhưng ta vẫn gặp rất nhiều khái niệm chỉ cái chết:

  • “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
  • “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
  • “Áo bào thay chiếu anh về đất”
  • “Tây Tiến người đi không hẹn ước”

Quang Dũng không hề né tránh cái chết, sự hi sinh nơi chiến trường khốc liệt, đó cũng là lí do mà có một thời người ta phê phán Quang Dũng bi lụy, sầu não (bởi văn học thời kì kháng chiến chống Pháp cảm hứng chủ đạo thường là ngợi ca, cổ vũ cho công cuộc cách mạng của dân tộc).

Khi sử dụng các từ ngữ khác nhau để miêu tả về "cái chết", Quang Dũng đều thể hiện được ngòi bút tài hoa của mình. Hình ảnh người lính “gục bên súng mũ bỏ quên đời” nhưng tựa như vẫn đang làm nhiệm vụ canh gác giữa đất trời. Với những chàng trai ấy “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”. Bởi vậy, cái chết đối với họ là sự trở về nơi bắt đầu để chuẩn bị cho một con đường mới. Cụm từ “anh về đất” nhẹ nhàng, thiêng liêng, trân trọng.

Ví dụ 2: Đọc tác phẩm “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ dạt dào của một trái tim rạo rực, cháy bỏng với những khát khao trong tình yêu:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

 

  • Sóng nhớ bờ trong chiều rộng không gian: “lòng sâu - mặt nước”; trong chiều dài thời gian: “ngày - đêm”. Em cũng thế.
  • Nhưng sóng nhớ bờ vẫn còn có giới hạn “lòng sâu - mặt nước”, “ngày - đêm” , còn em nhớ anh xuyên qua không gian, thời gian thực tại để đến với cõi tâm thức “trong mơ”.

⇒ Ngôn ngữ thơ ca đã giúp trái tim Xuân Quỳnh biểu hiện đến độ sâu nhất của nỗi nhớ. 

- Trong ngôn ngữ thơ ca, việc dùng từ trong sáng, chính xác cũng là sự sáng tạo, sự phát hiện độc đáo của tác giả.

Ví dụ: Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ ngữ chính xác, đem lại hiệu quả nghệ thuật cao.

Miêu tả thời gian, Quang Dũng không sử dụng khái niệm mùa quen thuộc, ông đã sáng tạo hình ảnh “mùa em”. Xuân, hạ, thu, đông là mùa của cả đất trời, của tất cả mọi người. Nhưng “mùa em” thì chỉ có của riêng Quang Dũng mà thôi. “Mùa em” là mùa ta gặp em, mùa gắn với hương nếp Mai Châu hay nghĩa tình người Tây Bắc.

Hay: Không viết “hoa nở” mà viết “hoa về”. “Hoa nở” vốn là cách dùng từ thông thường, còn “hoa về” lại ẩn chứa niềm vui hân hoan của hoa, của lòng người.

- Sử dụng từ thích hợp với đối tượng được miêu tả hoặc tạo ra ngữ cảnh thích hợp để từ ngữ lộ đúng nghĩa của nó là bản chất của tính chính xác.

Ví dụ: Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng viết:

“ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Hai từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt gần nhau trong một câu thơ là điều khó gặp. Người đọc cảm giác dốc lên cao, cao mãi như dựng đứng giữa đất tròi rồi đột nhiên chạm vào mây xanh. Dường như đất và trời gặp nhau nhờ dấu chân người lính.

b. Sự cô đọng, hàm súc (ý tại ngôn ngoại)

- Nhà văn Hê-ming-uê đã từng đưa ra nguyên lý “Tảng băng trôi”: bảy phần chìm, một phần nổi.

⇒ Người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm bằng ngôn từ giàu sức gợi, lời chật mà ý rộng. Đây là cách dùng từ sao cho “đắt” nhất, phù hợp nhất.

Ví dụ: Thơ Hai-cư là ví dụ điển hình cho ngôn ngữ "ý tại ngôn ngoại" với dung lượng ngắn nhưng giàu sức biểu đạt.

c. Tính đa nghĩa

Tính đa nghĩa của thơ không chỉ do yếu tố chủ quan của người tiếp nhận theo nguyên lý: tác phẩm văn học = văn bản + người đọc. Tính đa nghĩa còn do đặc trưng của ngôn ngữ thơ.

Ví dụ: Tiếng khóc của Nguyễn Du trong "Độc Tiểu Thanh kí"

  • Có thể là tiếng khóc cho nàng Tiểu Thanh tài hoa - bạc mệnh;
  • Có thể là tiếng khóc cho chính mình, tự thương lấy mình (chính tác giả).

d. Ngôn ngữ có nhịp điệu

- Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ có nhịp điệu, không có nhịp điệu thì không thành thơ. Ta dễ hiểu vì sao rất nhiều bài thơ đã được phổ nhạc.

Ví dụ:

(1) Nhịp điệu của bài thơ “Sóng” là nhịp điệu của con sóng ngoài đại dương, cũng là nhịp điệu sóng lòng của người phụ nữ khi yêu:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

(2) Nhịp điệu của “Tây Tiến” là nhịp điệu của một khúc nhạc quân hành một thời binh lửa: “ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”

(3) Nhịp điệu trong “Việt Bắc” là nhịp điệu của tiếng lòng sâu nặng, gắn bó của kẻ ở - người đi, của tình quân - dân thắm thiết: “Mình về mình có nhớ ta – Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng – Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.

⇒ Trải qua thời gian, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca ngày càng phát triển và hoàn thiện tựa như những nguồn nước mát trong nảy sinh từ cội nguồn sáng tạo sâu thẳm vô tận của con người

  • 35 lượt xem
Sắp xếp theo