- Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước tự do, độc lập → Văn học vận động và phát triển thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ suốt 30 năm đã tác động sâu sắc và mạnh mẽ đến đời sống vật chất và tinh thần của toàn dân tộc (trong đó có văn học).
- Điều kiện giao lưu văn hoá với các nước ngoài bị hạn chế, chỉ giới hạn trong một số nước.
2.1. Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954
a. Nội dung:
- Chủ đề bao trùm sáng tác văn học trong những ngày đầu đất nước giành được độc lập là ca ngợi Tổ Quốc và quần chúng cách mạng, kêu gọi tinh thần đoàn kết toàn dân, cổ vũ phong trào Nam tiến, biểu dương những tấm gương vì nước quên mình.
- Từ cuối năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đến với cách mạng và kháng chiến, nhiều văn nghệ, nhiều nghệ sĩ đã thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đưa văn nghệ thâm nhập đời sống thực tế,....đã góp phần khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn và tạo nên những thành tựu đặc sắc của văn nghệ kháng chiến.
- Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến: hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân: thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.
b. Thành tựu ở từng thể loại:
* Truyện kí:
- Truyện ngắn và ký là những thể loại mở đầu cho văn xuôi kháng chiến, chống thực dân Pháp. Kí sự Một lần tới Thủ Đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng, truyện ngắn Đôi mắt và nhật ký Ở rừng của Nam Cao, truyện ngắn Làng của Kim Lân, Thư nhà của Hồ Phương,... là những tác phẩm tiêu biểu.
- Từ năm 1950, đã bắt đầu xuất hiện những tập truyện, kí khá dày dặn. Đáng chú ý là các tác phẩm được tặng giải thưởng truyện – kí của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1951-1952: Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng và các tác phẩm được tặng giải Nhất trong giải thưởng truyện – kí năm 1954-1955: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
* Thơ: Những tác phẩm xuất sắc của thơ kháng chiến là Cảnh khuya, Rằm tháng giêng (Nguyên Tiêu) của Hồ Chí Minh, Đèo Cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm,Tây Tiến của Quang Dũng, Nhớ của Hồng Nguyên, Đất Nước của Nguyễn Đình Thi, Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông, Đồng chí của Chính Hữu và đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu...
* Kịch: Một số vở kịch ra đời phản ánh hiện thực cách mạng và kháng chiến. Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi là những vở được chú ý trong chặng đường này.
* Lí luận, phê bình: Lí luận nhưng đã có một số sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng. Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và Vấn đề văn hóa Việt Nam (1948) của Trường Chinh, Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc (1949) có ý nghĩa định hướng cho văn học nghệ thuật. Bài tiểu luận Nhận đường và tập Mấy vấn đề nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, tập phê bình, tiểu luận Nói chuyện thơ ca kháng chiến và Quyền sống con người trong “Truyện Kiều” của Hoài Thanh, Giảng văn “Chinh phụ ngâm” của Đặng Thai Mai,...là những tác phẩm tiêu biểu.
2.2. Chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964
a. Nội dung:
- Đây là chặng đường văn học trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.
- Văn học tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội với cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui và niềm lạc quan tin tưởng.
- Nhiều tác phẩm văn học đã thể hiện tình cảm sâu nặng với niềm Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước.
b. Thành tựu ở từng thể loại:
* Truyện kí:
- Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vần đề và phạm vi của hiện thực đời sống : Đi nước nữa của Nguyễn Thế Phương, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Anh Keng của Nguyễn Kiên; tiểu thuyết Sống mãi với Thủ Đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm....
- Ngoài ra còn có những truyện ngắn, tiểu thuyết viết về hiện thực đời sống trước Cách Mạng với cái nhìn, khả năng phân tích và sức khái quát mới: Vợ nhặt của Kim Lân, Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Mười năm của Tô Hoài, Phất của Bùi Huy Phồn. Những bộ tiểu thuyết: Vỡ bờ (hai tập) của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển (bốn tập) của Nguyên Hồng.
- Sông Đà của Nguyễn Tuân, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ,... bước đầu khẳng định thành tựu của văn xuôi viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc. Tuy nhiên, ở chặng đường này, vẫn còn nhiều tác phẩm thể hiện con người và cuộc sống một cách đơn giản, phẩm chất nghệ thuật còn non yếu.
* Thơ:
- Thơ ca đã có được một mùa gặt bội thu với các tập Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Đất nở hoa, Bài thơ Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi, Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông,..
- Nỗi đau chia cắt đất nước, nỗi nhớ quê hương và khát vọng giải phóng miền Nam là nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ đặc sắc của Tố Hữu, Tế Hanh, Nguyễn Bính. Ngay trên tuyến đầu chống Mĩ, đã sớm xuất hiện những bài thơ hay, xúc động về miền Nam yêu thương và anh dũng như Mồ anh hoa nở của Thanh Hải và Quê hương của Giang Nam.
* Kịch: Kịch nói cũng có một số tác phẩm được dư luận chú ý như Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Quẫn của Lộng Chương, Chị Nhàn và Nổi gió của Đào Hồng Cẩm.
2.3. Chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975
a. Nội dung:
Văn học chặng đường này tập trung viết về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
b. Thành tựu ở từng thể loại:
* Truyện kí:
- Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Giấc mơ ông lão vườn chim, Hòn Đất của Anh Đức, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Mẫn và tôi của Phan Tứ,.. đã tạo được sự hấp dẫn người đọc trong những năm chống Mĩ.
- Ở miền Bắc, truyện kí cũng phát triển mạnh. Tiêu biểu là kí chống Mĩ của Nguyễn Tuân : truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường, Đỗ Chu; tiểu thuyết Vùng trời (ba tập) của Hữu Mai, Cửa sông và Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, Bão biển (hai tập) của Chu Văn.
* Thơ:
- Nhiều tập thơ có tiếng vang, tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn như Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường – Chim báo bão và những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt của Xuân Diệu, Dòng sông trong xanh của Nguyễn Đình Thi, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, Cửa mở của Việt Phương, Vầng trăng quần lửa và Thơ một chặng đường của Phạm Tiến Duật, Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, Hương cây – Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt, Cát trắng của Nguyễn Duy, Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa...
- Lịch sử thơ ca chặng đường này đặc biệt ghi nhận sự xuất hiện và những đóng góp của thế hệ các nhà thơ trẻ đã đem đến cho nên thơ Việt Nam hiện đại một tiếng thơ mới; trẻ trung, sôi nổi mà vẫn thấm đượm chất suy tư, triết luận. Đó là Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, Hũu Thỉnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa....
* Kịch:
Kịch cũng có những thành tựu đáng ghi nhận: Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh,… là những vở tạo được tiếng vang lúc bấy giờ.
* Lí luận, phê bình:
Chặng đường này, nhiều công trình nghiên cứu, lí luận, phê bình xuất hiện. Có giá trị hơn cả là những công trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ...
2.4. Nói đến văn học Việt nam từ năm 1945 đến năm 1975 cần phải lưu ý tới văn học vùng địch tạm chiếm, tức là văn học dưới chế độ thực dân (cũ hoặc mới)
a. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước
- Nền văn học mới được khai sinh cùng sự ra đời của nhà nước nhân dân còn non trẻ, lại trải qua ba mươi năm chiến tranh ác liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, vận nước có lúc ngàn treo sợi tóc nên sớm được kiến tạo theo mô hình “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” (Hồ Chí Minh) cùng với kiểu nhà văn mới: nhà văn- chiến sĩ.
- Khuynh hướng tư tưởng chủ đạo của nền văn học mới là tư tưởng cách mạng, văn học trước hết phải là một thứ vũ khí phục vụ sự nghiệp cách mạng. Ý thức trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ được đề cao. Gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nước, dùng nòi bút để phục vụ kháng chiến, cỗ vũ chiến đấu là đòi hỏi, yêu cầu của thời đại, đồng thời cũng là tình cảm, ý thức tự giác của nhà văn.
- Gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước nên quá trình vận động, phát triển của nền văn học mới ăn nhịp với từng chặng đường lịch sử của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước.
b. Nền văn học hướng về đại chúng
- Cách mạng và kháng chiến đã làm thay đổi hẳn cách nhìn nhân dân của nhiều nhà văn: đồng thời hình thành ở họ một quan niệm mới về đất nước: đất nước của nhân dân. Chính nhân dân đã xây dựng, gìn giữ và bảo vệ đất nước bằng mồ hôi, nước mắt và máu xương của mình qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là cảm hứng chủ đạo, là chủ đề của nhiều tác phẩm viết về đất nước trong văn học giai đọan này.
- Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 quan tâm tới đời sống của nhân dân lao động, nói lên nỗi bất hạnh của những người lao động nghèo khổ bị áp bức, bóc lột trong xã hội cũ cũng như niềm vui, niềm tự hào của họ về cuộc đời mới. Nhiều tác phẩm đã thể hiện con đường tất yếu đến với cách mạng của những người dân lao động bị dồn đẩy đến bước đường cùng, phát hiện ở họ khả năng cách mạng và phẩm chất anh hùng. Nền văn học mới cũng tập trung hình tượng quần chúng cách mạng, miêu tả tâm hồn của nhân dân lao động. Có thể nói, đó là một nền văn học có tính nhân văn sâu sắc và nội dung nhân đạo mới.
- Hướng về đại chúng, văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 phần lớn là những tác phẩm ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng. Văn học cũng thường tìm đến những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân dân ở ngay trong kho tàng văn hóa dân gian và văn học truyền thống. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, trong sáng, dễ hiểu đối với nhân dân.
c. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
* Khuynh hướng sử thi:
- Đề tài sử thi gắn với những vấn đề liên quan đến vận mệnh của cộng đồng.
- Nhân vật sử thi là những con người đại diện cho cộng đồng, kết tinh các phẩm chất cao quý của cộng đồng, số phận gắn với số phận của cộng đồng – sống chết cùng cộng đồng.
- Con người được khám phá ở bổn phận trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống lớn và tình cảm lớn.
- Lời văn sử thi mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.
* Cảm hứng lãng mạn:
- Khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống và vẻ đẹp của con người mới
- Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng
- Tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
- Chiến thắng mùa xuân 1975, lịch sử dân tộc lại mở ra một thời kỳ mới - thờI kỳ độc lập, tự do và thống nhất đất nước.
- Từ 1986, bước vào công cuộc đổi mới, tiếp xúc rộng rãi với nhiều nền văn hoá trên thế giới
- Phong trào nói thẳng, nói thật được phát động sôi nổi.
- Quan điểm văn nghệ của Đảng: Văn học là nhu cầu văn hoá thiết yếu của con người.
2.1. Nội dung:
- Từ năm 1975 và nhất là từ năm 1986, văn học Việt Nam từng bước chuyển sang giai đọan mới. Có thể xem từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường văn học chuyển tiếp, trăn trở, tìm kiếm con đường mới. Còn từ năm 1986 trở đi là chặng đường văn học đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và khá toàn diện.
- Nhìn chung, văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỷ XX đã vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhăn văn sâu sắc. Văn học phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề; phong phú và mới mẻ hơn về thủ pháp nghệ thuật. Văn học giai đoạn này đã đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách nhìn nhận, cách tiếp cận con người và hiện thực đời sống, đã khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương tiện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh. Cái mới của văn học giai đoạn này là tính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường.
- Văn học từ năm 1975 đến hết thế kỷ XX, bên cạnh những mặt tích cực và những tìm tòi đúng hướng, cũng nảy sinh một vài xu hướng tiêu cực, những lúng túng, bất cập, thiếu lành mạnh.
- Nới tới văn học Việt Nam giai đoạn này, cũng cần chú ý đến một số sáng tác có giá trị của những cây bút người Việt sống ở nước ngoài.
2.2. Thành tựu ở từng thể loại :
a. Truyện kí:
- Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng, Thái Bá Lợi với Hai người trở lại trung đoàn; Đứng trước biển và Cù lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Cha và con, và …, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, Mưa mùa hạ và Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu; những tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh Châu,....phóng sự của Nguyễn Hùng Gia Lộc, Trần Huy Quang Các, Trần Khắc, Hoàng Minh Tường,...Văn xuôi thực sự khởi sắc với những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao như các tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Hiệp; tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
- Kí cũng phát triển, có được thành tựu mới như bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài...
b. Thơ:
Từ sau năm 1975, thơ không tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn như ở giai đoạn trước. Tuy nhiên, vẫn có ít nhiều tác phẩm tạo được sự chú ý của người đọc: Di cảo của Chế Lan Viên, trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thịnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu,... Tự hát của Xuân Quỳnh, Người đàn và ngồi đàn của Ý Nhi, Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, Ánh trăng của Nguyễn Duy, Xúc xắc mùa thu của Hoàng Nhuận Cầm, Nhà thơ và hoa cỏ của Trần Nhuận Minh, Gọi nhau qua vách núi của Thi Hoàng... Những cây bút làm thơ thuộc thế hệ các nhà thơ sau năm 1975 xuất hiện ngày càng nhiều, đã và đang từng bước khẳng định vị trí của mình, tiêu biểu là Y Phương với tập Tiếng hát tháng giêng, Nguyễn Quang Thiều với tập Sự mất ngủ của lửa,...
c. Kịch:
Kịch nói từ sau năm 1975 phát triển khá mạnh mẽ. Một số tác phẩm đã gây được tiếng vang là Hồn Trương Ba, da hàng thịt và Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển của Xuân Trình...
d. Lí luận, phê bình:
Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học cũng có sự đổi mới. Về đội ngũ, ngoài những cây bút có tên tuổi từ trước, đã xuất hiện một số người viết trẻ có triển vọng. Do được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin mới, nhiều tiêu chí đánh giá văn học, hệ thống các khái niệm được vận dụng trong nghiên cứu, phê bình đã được điều chỉnh và bổ sung. Nhiều nhà nghiên cứu, lí luận, phê bình đã có ý thức tự giác cao hơn trong việc đổi mới phương pháp tiếp cận đối tượng. Giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân bản và chức năng thẩm mĩ của văn học được đặc biệt chú ý.