Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

"Họ đã thức tỉnh. Họ thật đẹp và yêu đời … còn một phút sống vẫn còn chờ đợi, vẫn mong, vẫn tin một ngày bình yên, yên vui của tình yêu và đất nước.”

A. Hệ thống luận điểm chính

B. Gợi ý mở bài 

Mẫu số 1

Đã có lần Tô Hoài – nhà văn có duyên nợ gắn bó với đề tài miền núi Tây Bắc tâm sự rằng: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao giờ có thể quên.” Và hình ảnh Tây Bắc đau thương ấy đã thành nét, thành hình trong tâm trí ông và đó là lí do để “Vợ chồng A Phủ” ra đời trong tất cả những thương quý của nhà văn Tô Hoài. 

Mẫu số 2

“Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
                                                    (Chế Lan Viên)

Tây Bắc - mảnh đất xứ thiêng đã khơi nguồn thăng hoa và lưu dấu tên tuổi của biết bao văn – nghệ sĩ. Nếu như Chế Lan Viên tìm về ngọn nguồn ân tình Cách mạng thì Tô Hoài lên Tây Bắc để buông dòng cảm xúc trên tập truyện Tây Bắc mà linh hồn là “Vợ chồng A Phủ”. 

C. Phân tích chi tiết 

I. Khái quát chung 

1. Tác giả: Tô Hoài (1920 - 2014)

a. Tiểu sử

- Tên khai sinh: Nguyễn Sen.

- Ngày sinh: 10/8/1920 – tại quê ngoại: làng Nghĩa Đô, ven sông Tô Lịch, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội), trong một gia đình làm nghề thủ công.

- Tô Hoài chỉ học hết bậc tiểu học. Từ năm 1936 – 1940 phải làm nhiều nghề để kiếm sống như bán hàng giày Bata, phụ kế toán hiệu buôn,… Năm 1941 ông chuyển sang nghề viết văn.

- Từ năm 1937 – 1942, ông tham gia hoạt động phong trào cách mạng thời kì Mặt trận bình dân. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Tô Hoài làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.

b. Sự nghiệp

- KQ chung: Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông là người có 95 năm tuổi đời nhưng dành đến 70 năm để đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ.

Từ trước CMT8 1945, Tô Hoài đã viết nhiều với 2 đề tài chính: truyện các loài vật và truyện về cuộc sống của những người dân nghèo, thợ thủ công ở vùng quê ngoại thành Hà Nội – hiện tại và lịch sử. Sau CMT8, ngòi bút Tô Hoài càng sung sức, những trang viết của ông xoay quanh các đề tài: miền núi Tây Bắc, Việt Bắc trong cách mạng, kháng chiến và xây dựng CNXH; sáng tác cho thiếu nhi; viết chân dung và hồi ức.

- PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT

+ Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường. Theo ông: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải phá vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.”

+ Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của phong tục. Ông có một nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy bén và sắc sảo. Những phong tục từ bao đời nay của dân tộc ta vốn đã rất phong phú và độc đáo nhưng khi vào tác phẩm của Tô Hoài lại càng thêm sinh động, lôi cuốn bội phần.

⇒ Liên hệ: Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyễn từng nói “Văn chương của ông hướng về những con người, số phận, cuộc đời lấm láp, đời thường. Ông ra đi vì tuổi trời nhưng văn chương của ông vẫn còn nguyên giá trị.”

2. Tác phẩm 

- Là kết quả của chuyến đi lên Tây Bắc giải phóng đồng bào dân tộc cùng với đồng đội năm 1952. Trong chuyến đi này, với nhiệm vụ là một phóng viên có nhiệm vụ ghi lại những diễn biến về đời sống nhân dân và Cách mạng, ông có điều kiện tiếp xúc nhiều với đồng bào Tây Bắc và cuộc sống của họ nơi đây đã khơi nguồn cảm hứng cho ông.

⇒ Liên hệ: “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét thành hình trong tâm trí tôi. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác.” (Tô Hoài)

- Tác phẩm tập trung miêu tả, phản ánh cuộc sống tủi cực của đồng bào dân tộc miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến, thực dân. Nhờ có ánh sáng Cách mạng đã giúp họ thức tỉnh và giải thoát.

⇒ Truyện ngắn là kết quả của quá trình tích lũy và những hiểu biết của nhà văn đối với con người và cuộc sống miền núi Tây Bắc, kết tinh những tình cảm nồng nàn mà nhà văn dành cho mảnh đất không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng các văn – nghệ sĩ.

⇒ Qua việc phản ánh cuộc sống khổ nhục, tối tăm của người dân lao động miền núi Tây Bắc, Tô Hoài đã thể hiện lòng cảm thông và sự trân trọng những khát khao tự do và ý thức tự giải phóng của họ.

II. Phân tích

1. Nhân vật Mị

1.1. Sự xuất hiện của nhân vật Mị

- Tô Hoài để cho Mị xuất hiện “bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Việc ấy xuất hiện thường xuyên, liên tục đến mức “ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra” đều nhận thấy sự việc này.

🡪 Cái tưởng như bình thường đã dần trở nên bất thường.

🡪 Hình ảnh ấy hé lộ cho người đọc biết trong gia đình thống lý, Mị không được ở vị trí bình thường của một con người mà bị đẩy xuống vị trí của đồ vật, con vật bởi tàu ngựa là nơi nuôi gia súc, còn tảng đá gợi sự trơ lì, vô tri, vô giác, âm thầm và câm lặng.

- Cùng với việc miêu tả không gian gắn liền với nhân vật Mị, nhà văn còn miêu tả một cách khái quát về diện mạo, thần thái của nhân vật này: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”

🡪 Dường như mục đích của Tô Hoài không phải để miêu tả diện mạo mà để cho người đọc thấy được thế giới nội tâm đầy đau khổ, sầu não, u uất trong lòng, cũng là thái độ cam chịu, chấp nhận của nhân vật ấy trong mọi tình huống.

- Tô Hoài đã có dụng ý khi để hình ảnh nhỏ bé, đáng thương ấy xuất hiện ngay bên cạnh bức tranh xa hoa, trụy lạc của nhà thống lý Pá Tra: “nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều”, “nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng.”

🡺 Sự đối lập, tương phản gay gắt này đã phản ánh hiện thực đau đớn, phũ phàng của nông thôn miền núi trước năm 1945. Chính ở nơi giàu có nhất, xa hoa nhất lại là nơi con người bị rẻ rúng, chà đạp nặng nề nhất.

1.2. Cuộc sống làm dâu gạt nợ của Mị

1.2.1. Trước khi về làm dâu nhà thống lý 

Vẻ đẹp nhan sắc 

Mang nét khỏe khoắn, đầy sức sống như những bông hoa đồng nội của núi rừng.

Tài năng

Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, "trai làng vì mê tiếng sáo, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị", “đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”

Tính cách, phẩm chất

- Mị chăm chỉ, cần cù, yêu lao động, còn là người con gái có tính cách mạnh mẽ, tự chủ. Trước món nợ của cha mẹ và ý định bắt Mị làm dâu của nhà thống lý, Mị tha thiết xin được ở nhà: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.”

⇒ Mị ý thức được sự trưởng thành và khả năng lao động của chính mình, thể hiện rõ ràng mong muốn đỡ đần cha mẹ - ý thức, trách nhiệm với gia đình. Cô muốn tự quyết định số phận mình mà không chấp nhận biến mình thành thứ hàng hóa gả bán cho nhà giàu.

- Mị là cô gái giàu lòng tự trọng, không tham giàu sang, phú quý, thậm chí với sự thông minh, sâu sắc của mình, cô còn ý thức được sự khác biệt của mình và “nhà giàu”, cô rất sợ, dứt khoát từ chối vì hiểu rõ bản chất nhà thống lý Pá Tra, nhìn thấy trước những bất hạnh của số phận mình nếu phải làm dâu nhà Pá Tra. Cô thà sống cuộc đời vất vả, khổ cực nhưng được tự do.

- Mị vốn là cô gái có trái tim vị tha, nhân hậu. Ở nhà với cha mẹ, Mị hiếu thảo, nết na, chăm chỉ. Mị tự nguyện làm lụng trả nợ thay gia đình. Khi bị bắt về nhà thống lí, không chịu nổi kiếp sống đớn đau, khổ cực, Mị muốn tự giải thoát cho mình bằng cái chết nhưng vì thương bố, sợ liên lụy đến bố lại gạt nước mắt, chấp nhận kiếp sống nô lệ còn đáng sợ hơn cái chết.

⇒ Mị có đầy đủ những điều kiện, cơ hội để được hạnh phúc và trên thực tế, tình yêu của Mị đã chớm nở bằng việc Mị có người yêu là một chàng trai cùng bản. Nhưng cánh cửa hạnh phúc chưa kịp mở ra thì nó đã khóa chặt lại, đẩy Mị vào cuộc sống tăm tối, đau khổ, tủi nhục.

1.2.2. Cuộc sống làm dâu gạt nợ 

Nguyên nhân 

Trực tiếp

Do món nợ truyền kiếp của gia đình: “Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ.” Mỗi năm phải đem nộp lãi đến “một nương ngô, khi hai vợ chồng già rồi vẫn chưa trả hết nợ.”

⇒ Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.

Gián tiếp

Xuất phát bản chất dã man, vô nhân đạo của giai cấp miền núi trước 1945. Chế độ ấy điển hình là cha con thống lý Pá Tra đã coi rẻ giá trị của con người, đã dùng thủ đoạn cho vay nặng lãi để trùm bóng đen số phận người nhân dân đời này qua đời khác.

- Mị bị chà đạp về thể xác:

+ Cũng như bao người phụ nữ miền núi khác, Mị phải chịu cảnh áp bức bóc lột nặng nề như một người ở không công trong kiếp làm dâu gạt nợ. Cô phải làm việc liên miên, “con trâu, con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ” còn Mị và những người đàn bà khác trong nhà thống lý thì “vùi mặt vào việc cả đêm, cả ngày”

+ “Mị cúi mặt, không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng làm đi làm lại.”

🡺 Tô Hoài đã có dụng ý khi viết một câu văn rất dài để người đọc hình dung về vòng quay liên miên, nặng nề của công việc mà Mị thực hiện.

🡺 Ở đoạn này, Tô Hoài dùng lối trần thuật nửa trực tiếp, như lời bộc bạch của Mị, nhờ vậy mà nỗi khổ của Mị hiện lên tự nhiên, chân thực, đầy xót xa, đầy đau đớn, dằn vặt.

+ Bất cứ lúc nào, Mị cũng có thể bị tóm, bị đánh một cách dã man, vô lí. Khi định đi chơi trong đêm hội mùa xuân như mọi người đàn bà khác ở Hồng Ngài, Mị bị A Phủ trói đứng vào cột nhà, xoa thuốc cho A Sử suốt đêm, khi kiệt sức mà thiếp đi liền bị đạp chân vào mặt. Thậm chí khi Mị chỉ ngồi sưởi lửa, hơ tay, không đụng chạm đến ai, A Sử đi qua, ngứa tay cũng “đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp”.

- Mị bị chà đạp về tinh thần:

+ Ngay khi bị bắt về làm dâu cô đã phải trải qua nghi lễ khủng khiếp đó là bị đem cúng trình ma → hành động này đã đánh vào niềm tin tâm linh để Mị và người dân nơi đây có niềm tin tuyệt đối: sống làm ma, chết làm ma nhà người, không thể thoát ra được.

🡺 Có thể thấy đây là hành động thâm độc nhất của giai cấp thống trị miền núi để người dân tự từ bỏ quyền được sống, quyền tự do của mình.

+ “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Nỗi đau tinh thần, thể xác cứ kéo dài đến triền miên khiến người con gái ấy đau khổ đến mức muốn tìm đến cái chết để giải thoát khỏi nghịch cảnh: “Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết”.

+ Những năm tháng trở lại nhà thống lí khiến người con gái có ý thức tự chủ mạnh mẽ ngày xưa nay dường như không còn sức phản kháng. Cuộc sống của Mị chỉ còn như sự tồn tại của cỏ cây, cuộc đời Mị chỉ là chuỗi ngày mòn mỏi với những ý nghĩ buông xuôi, phó mặc, đầu hàng số phận: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”.

🡺 Mị làm việc như một cái máy vô hồn, vô cảm, 1 công cụ lao động biết nói mà câm lặng.

+ Hệ quả tất yếu là: người phụ nữ nhỏ bé dần trở nên chai lì, câm lặng, cúi đầu chấp nhận tất cả những đau khổ ấy. Điều này được Tô Hoài miêu tả 1 cách đầy ám ảnh qua cách so sánh. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa trong xó cửa” và hình ảnh căn buồng Mị nằm. Hình ảnh con vật được coi là chậm chạp nhất sống trong không gian tối tăm chật hẹp tô đậm thân phận nhỏ bé đáng thương cùng thái độ cam chịu, chấp nhận cúi đầu trong đau khổ của Mị.

🡺 Phản ánh cuộc sống đau khổ, đày đọa, tủi nhục của Mị, trước hết Tô Hoài đã đem đến cho tác phẩm của mình giá trị hiện thực sâu sắc. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã khái quát số phận đau khổ, bi thương của người nông dân miền núi trước 1945. Đó cũng là lý do để bên cạnh Mị, nhà văn còn xây dựng hình ảnh nhân vật khác như người chị dâu chưa già lưng đã còng xuống và nỗi ám ảnh về câu chuyện đã từng có người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí.

+ Mị là hiện thân cho những cô gái xinh đẹp, trẻ trung nhưng số phận đau đớn, tủi nhục như những bông hoa bị vùi dập giữa những xoáy nước dữ dội của cuộc đời. Số phận Mị còn mang đậm ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ bản chất độc ác của giai cấp thống trị miền núi.

+ Thông qua đó, người đọc còn nhận thấy trái tim nhân đạo của Tô Hoài bởi ông đã trải lòng mình ra để đồng cảm, xót thương cho nhân vật của mình. 

1.3. Mị trong đêm tình mùa xuân

1.3.1. Khung cảnh mùa xuân

- Trước hết, Tô Hoài đã chọn khung cảnh mùa xuân để làm nền cho tâm trạng nhân vật Mị. Nhà văn đã dẫn người đọc đến khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc với những chi tiết rất đặc trưng, tiêu biểu để mở ra khung cảnh Tây Bắc mùa xuân: “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.” Bên cạnh đó là bức tranh con người với màu sắc rực rỡ của những chiếc váy hoa đem ra phơi trên mỏm đá và âm thanh tiếng cười của người đi chơi Tết. Đặc biệt là tiếng sáo rủ bạn đi chơi:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.”

🡺 Sự chuyển mình của đất trời, giã từ mùa đông giá lạnh để đến màu xuân ấm áp đã tác động mạnh mẽ vào tâm hồn người, thổi bùng lên sức sống tiềm tàng được ấp ủ trong tâm hồn Mị.

1.3.2. Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị

-  Sự tác động của bối cảnh bên ngoài đã khiến cho sức sống bên trong con người Mị dần hồi sinh: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát người đang thổi.”  Tiếng hát chính là hiện thân cho khát vọng và tình yêu, cũng là sự khẳng định tâm hồn Mị đang dần trở lại.

- Ý thức về cuộc sống trong tâm hồn Mị đã dần trở về. Nhà văn đã miêu tả rất ấn tượng về hành động của Mị: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát.”

  • Rượu làm cơ thể Mị say nhưng tâm hồn vẫn luôn tỉnh táo.
  • Men rượu giúp Mị vừa lãng quên thực tại vừa nhớ về quá khứ. Nhưng quan trọng nhất, nó là chất xúc tác để Mị nhận ra mình là một con người, Mị có quyền sống như một con người.

- Nếu trước đây, Mị gần như hoàn toàn mất đi ý thức về thời gian, không gian thì khi mùa xuân đến, âm thanh tiếng sáo và men rượu ngày Tết đã thức tỉnh ý thức của Mị tìm về quá khứ.

  • Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.”
  • Đó là cả một quá khứ tươi đẹp, tự do, hạnh phúc bất chợt hiện về. Nhưng quá khứ càng tươi đẹp, hạnh phúc bao nhiêu thì những xót xa cho tình cảnh hiện tại với những đau đớn, tủi cực, tù túng, cô đơn lại càng nghẹn ngào, thấm thía bấy nhiêu.

- Mị có những đổi thay nhỏ bé nơi tâm hồn:

  • Nếu trước đây nỗi buồn thường trực trên gương mặt Mị: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” thì bây giờ niềm vui dần hiện hữu: “Mị thấy phơi phới trở lại”
  • Lần đầu tiên, người con dâu trừ nợ khốn khổ ấy có ý thức sâu sắc về tuổi trẻ của mình: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.” Tuổi trẻ đồng nghĩa với tình yêu, nên ý thức về tuổi trẻ cũng là ý thức về khát vọng yêu đương, khát vọng hạnh phúc thiết tha mãnh liệt.
  • Trước đây, “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi” thì bây giờ “Mị muốn đi chơi.” Đó không chỉ là đi chơi Tết như bao người mà đó còn là đi theo tiếng gọi của tình yêu, của hạnh phúc và tự do. 
  • Mị nhận ra sự phi lý, bất công của cuộc đời mình. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm tháng làm dâu, Mị mới thầm so sánh cảnh ngộ hiện tại của mình với cảnh ngộ những người làm dâu khác: “Bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.”
  • Và rồi một lần nữa Mị lại muốn chết. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.”

🡺 Mị muốn chết để không còn phải tiếp tục chịu đựng một cuộc sống thiếu vắng tình yêu, thiếu vắng hi vọng và mơ ước.

- Mị có những hành động khác thường:

  • Tiếng sáo gọi bạn yêu “vẫn lửng lơ bay ngoài đường”:

“Anh ném pao em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi.”

🡺 Nó hối thúc Mị phải thắp sáng cho số phận cuộc đời mình thay vì chấp nhận sống mãi trong căn buồng tối “kín mít”. “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” và rồi, ánh sáng từ đèn kia cũng như từ một vùng trời tươi đẹp nào đó sẽ lại soi sáng cho cuộc đời Mị. Nó thôi thúc Mị phải làm mới bản thân: “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách.” 

🡺 Câu văn của Tô Hoài tuy ngắn mà dồn dập như một tiếng gọi đầy thôi thúc từ bên trong tâm hồn Mị. Sức sống vì vậy theo cơn gió mạnh mẽ của người phụ nữ đang trở về mùa xuân của chính mình. Sức sống ấy theo lời văn, câu chữ của Tô Hoài len lỏi vào tâm hồn người đọc để tìm kiếm sự đồng cảm, sự ngưỡng mộ dành cho Mị.

- A Sử trở về: Tiếc thay, niềm vui ngắn chẳng đầy gang, A Sử lại xuất hiện như một vết thương lở loét trong tâm hồn ham sống của Mị.

  • “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị.” Thế rồi hắn “trói đứng Mị vào cột nhà”. Tóc Mị xõa xuống, hắn “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa.” Mị thì vừa thắp sáng đèn, “A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”. Từng hành động của A Sử cứ thế giăng đầy sự dã man, tàn độc, lạnh lùng trong từng khát vọng sống vừa được nhen nhóm của Mị.
  • Cái sợi dây đay mà Mị đã từng quay “bên tảng đá, cạnh tàu ngựa” lại quay ngược trở lại, đối đầu với Mị. Nhưng Mị không phản ứng. Như thể sợi dây kia cũng chính là bọn ác nhân thống trị miền núi, như thế lực nhà thống lý Pá Tra, như sự lạnh lùng đến tàn nhẫn của A Sử.
  • Nhưng dù tàn độc đến đâu cũng chỉ trói được thân xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, khát vọng chính đáng của Mị: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào?” Tiếng sáo vẫn tiếp tục trong tâm hồn Mị để tạo nên sức mạnh: Mị “vùng bước đi”. Tiếng sáo ấy là một liều thuốc xoa dịu đi những vết thương tinh thần và thể xác của Mị. Nhưng sợi dây trói oan nghiệt lại lần nữa kéo Mị trở về thực tại, lại lần nữa vô tình, lạnh lùng dập tắt tiếng sáo về mùa xuân của Mị.
  • Tiếng sáo lại hiện về trong buồn thương tan dần trong kí ức Mị: “Chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa vẫn đứng yên gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.”
  • “Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế”, sống mà “lúc mê lúc tỉnh” như thế trong hơi rượu tỏa và tiếng chó sủa xa xa.

🡺 Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc vẫn tồn tại âm ỉ như một đám than hồng không bao giờ bị dập tắt và sẽ bùng lên mạnh mẽ từ dưới lớp tro buồn trong một khoảnh khắc nào đó mà chính bản thân Mị cũng không biết được.

1.4. Mị trong đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ

1.4.1. Hành động, tâm trạng trước khi Mị cắt dây trói 

- Đêm tình mùa xuân đã mở ra trong Mị một thế giới khác, một thế giới của những niềm hi vọng mới, không còn quẩn quanh trong cuộc sống con trâu, con ngựa “vùi đầu vào việc làm cả đêm cả ngày”. Tuy nhiên đêm xuân đi để lại bao tiếc nuối và sự mơ hồ trong tâm trí Mị. Mị lại trở về ngày trước, vô cảm với thế giới xung quanh mình.

- “Những đêm đông trên núi cao dài và buồn, không có bếp lửa sưởi kia Mị cũng chết héo.” “Dài” “buồn” – một cảm nhận của con người chân thật cho thấy Mị đã phần nào lấy lại được ý thức về thời gian và cảm nhận được buồn vui chính mình.

- Thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Trong Mị phảng phất: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi lửa hơ tay. Mị vẫn chỉ biết đến ngọn lửa.” Ngọn lửa kia là thứ ánh sáng duy nhất Mị có được bấy giờ. “Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo.” Ngọn lửa giúp Mị bớt rét, bớt cô đơn, hiu quạnh bởi ít nhất có ngọn lửa như bầu bạn, “mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng không biết bao nhiêu lần.”

🡺 Sự quẩn quanh của Mị đã thể hiện sự trơ lì của cô trong những tháng ngày vô nghĩa: không tình yêu, không tự do. Tuy nhiên ngọn lửa ấy đã tạo cho hai con người đau khổ gặp nhau “Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống.” Bởi Mị đã chai sạn, lòng Mị đã chết từ cái đêm mùa xuân nhiều tháng ngày về trước, chết trong sự tàn nhẫn của A Sử, trong tiếng chân ngựa đạp vách, trong tiếng sáo vang vọng rồi chìm vào đêm tối.

- Sự thản nhiên của Mị là sự hồi đáp của những tháng ngày đau khổ, lụi tàn trong sự đánh mất hy vọng và khát khao hạnh phúc. Mị đã tê liệt về ý thức: “Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi lửa như đêm trước.”

- Sự chuyển biến của tâm trạng Mị chỉ đến khi giữa hàng chục cái buổi đêm sưởi lửa: “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại.” 

  • Mị chạnh lòng. Mị tự thương xót cho chính mình. Mị nhớ “trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.”; “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được.” 
  • Trong cơn đau, Mị còn nhớ “sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã sụp xuống” nhưng sau đó Mị phải quên cả đau “đi hái thuốc cho chồng”.
  • Khi ý thức trở về, Mị bắt đầu biết xót xa, biết đồng cảm cho người đồng cảnh ngộ - A Phủ: “Trời ơi, nó bắt trói người kia đến chết thì thôi.” Bởi lẽ Mị đã nhìn thấy chính mình trong cái dáng vẻ nhếch nhác đến thảm hại của A Phủ. Câu chuyện về người đàn bà bị trói đến chết lại tìm về trong tâm trí Mị.
  • Lòng căm phẫn bấy lâu bùng cháy: “Chúng nó thật độc ác!”  Mị thấy được sự bất công, vô lí: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế.”

🡺 Giọt nước mắt thay đổi Mị không chỉ vì nó gợi cho Mị những kí ức về một thời đã qua, gợi sự giằng xé đau đớn vì một cái chết oan ức mà còn vì nó gợi cho Mị ý thức đấu tranh với những điều bất công, tàn nhẫn. “A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.” Một người con trai khi bị đánh, bị hành hạ vẫn không kêu ca “quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá”, một người con trai khi để hổ ăn mất nửa con bò nhà thống lý vẫn gan góc cãi lại. Một người con trai mang trong mình một tương lai tươi sáng như vậy, cớ sao lại phải chết?

1.4.2. Hành động của Mị

- Tình người cùng với nhận thức về sự tàn ác của giai cấp thống trị đã trở thành động lực để Mị dũng cảm: “Mị rón rén bước lại…”, “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" giải cứu A Phủ.

- Trong suy nghĩ của cô gái ấy, từng phảng phất hiện ra những điều đáng sợ, đầy đe dọa: “Có thể một lúc nào, khi A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy.” Nhưng trong thời khắc buộc con người phải đấu tranh, con người ta đã quên đi nỗi sợ. Và hoạt động của Mị chính là chiến thắng của tình thương, của lẽ phải. 

- “Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được 1 tiếng : “Đi ngay”, rồi Mị nghẹn lại.

  • A Phủ được giải thoát, bóng đen vẫn vây lấy Mị trong những sự đe dọa dành cho khát vọng sống mãnh liệt đang nhen nhóm trong Mị. Khát vọng ấy trỗi dậy và lấn át trong tâm hồn. Nó mang những nỗi sợ hãi ùa về.
  • Sự “hốt hoảng” của Mị có lẽ là sự tự thương mình, thương cho tương lai bị đày ải trong căn nhà, lại tiếp tục chôn thân cho đến chết trong sự tàn độc của nhà thống lí Pá Tra. Mị bây giờ không còn trơ lì trong nỗi đau nữa. Và nỗi hốt hoảng ấy là nỗi sợ của người có niềm khao khát mãnh liệt mà không ai có thể dập tắt.

- “Mị đứng lặng trong bóng tối” – Phút lặng yên của Mị là phút lặng yên của 1 con người đang chuyển mình để trở thành 1 con người tự do. Trong dòng chữ ấy, người ta cảm thấy 1 điều gì đó thật lớn lao đang trỗi dậy. Đó là sức sống tiềm tàng mà chẳng 1 thế lực thần quyền, cường quyền nào cũng có thể ngăn lấy nữa. Con người cần phải sống trong 1 cuộc đời tự do và hạnh phúc, và phải đấu tranh để tận hưởng cuộc sống ấy: “Rồi Mị cũng vụt chạy ra… Mị nói, thở trong hơi gió lạnh buốt: A Phủ cho tôi đi … Ở đây thì chết mất”.

- Mị chạy theo A Phủ cũng là chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của khát vọng sống. Bởi Mị biết, nếu không đi, tự giải thoát, Mị sẽ chết ở đây một cách vô nghĩa. Chỉ bằng con dao cắt lúa với những nhát dao kiên quyết, dứt khoát đã giúp Mị cắt đứt sợi dây của cường quyền, thần quyền trói buộc Mị bao nhiêu lâu nay.

- Hình ảnh “A Phủ cùng Mị, hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” chính là niềm tin của Tô Hoài vào sự chủ động của con người để phản kháng cái ác, khôi phục và bảo vệ 1 cuộc sống hạnh phúc.

🡺 Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm mùa đông cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát mình khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.

1.5. Đánh giá nhân vật 

- Có thể khẳng định Mị là một hình tượng nhân vật thành công của Tô Hoài.

  • Đó là một nhân vật điển hình, tiêu biểu cho vẻ đẹp và số phận của người dân lao động ở vùng núi cao Tây Bắc, đồng thời là một trong số những hình tượng nhân vật nữ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc của văn học ta từ trước đến nay.
  • Tạo nên một cô Mị đặc sắc như vậy không thể không nói đến tài năng nghệ thuật của nhà văn mà thể hiện tập trung ở bút pháp xây dựng nhân vật và miêu tả tâm lý con người khá sắc sảo, tinh tế của Tô Hoài. Những đoạn miêu tả ngoại hình, hành động gợi mở số phận, tính cách hay những trang khắc họa diễn biến tâm lý nhân vật đều là những đoạn văn đặc sắc, chúng chứng tỏ bút lực và “tay nghề già dặn” của nhà văn. 

- Từ hình tượng nhân vật Mị, ta thấy toát lên niềm tin và sự trân trọng của nhà văn đối với những khát khao vươn lên cuộc sống tự do, hạnh phúc và có ý nghĩa của những người dân lao động bị đọa đày ở miền núi cao Tây Bắc. Đây là chiều sâu nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài, là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc.

2. Nhân vật A Phủ

2.1. Sự xuất hiện của A Phủ

- Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc.

+ Trong cuộc va chạm giữa trai làng bên và nhóm A Sử, A Phủ bất ngờ xuất hiện ngay sau câu nói: “Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi. A Phủ đâu ? A Phủ đánh chết nó đi !”. Ngay lập tức, “một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay bằng gỗ ngát lăng vào giữa mặt” con trai thống lý Pá Tra. A Sử “vừa kịp bưng tay lên” thì A Phủ đã “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”.

+ Những hành động của A Phủ diễn ra liên tiếp, nhanh và mạnh đến mức A Sử không kịp chống đỡ. Một loạt các động từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập, dứt khoát đã được Tô Hoài sử dụng ở đây để đặc tả các đòn đánh tới tấp, áp đảo của A Phủ. Những đòn đánh ấy vừa cho thấy sức mạnh của chàng trai này vừa tạo nên một hình ảnh thật dũng mãnh, hiên ngang ở A Phủ khi đối đầu không chút sợ hãi với con trai quan thống lý - một thứ “con giời” ở vùng núi cao Tây Bắc.

🡺 Như vậy, nếu sự xuất hiện của Mị gây chú ý cho người đọc ở hình ảnh tương phản với cảnh sống ở nhà Pá Tra thì sự xuất hiện của A Phủ lại khiến độc giả phải lưu tâm về hành động mạnh mẽ, dám đối đầu và đánh bị thương con trai thống lý mà không một chút đắn đo, suy tính. Sự xuất hiện của nhân vật này cũng khiến bạn đọc phải tò mò tìm hiểu xem A Phủ là ai mà hiên ngang như vậy ? Đánh A Sử rồi, A Phủ liệu có bị đòn thù từ thống lý Pá Tra ? Số phận con người này rồi sẽ thế nào?… 

2.2. Số phận A Phủ

Chàng trai mồ côi, nghèo nhưng khỏe mạnh và có khả năng lao động thật đáng quý.

- A Phủ có một hoàn cảnh xuất thân không may mắn:

  • Cha mẹ và cả anh em ruột của A Phủ đều bị chết trong “một trận bệnh đậu mùa”.
  • Bản thân A Phủ bị một người trong làng Háng-bla đói bụng bắt “đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái”. Không gia đình, không ruộng nương, không có bạc, chỉ duy nhất có “một chiếc vòng vía lằn trên cổ”, A Phủ chấp nhận cảnh sống nghèo khổ, đi làm thuê làm mướn để có cái ăn.

- Chính cuộc sống khó nhọc và cùng cực ấy đã hun đúc nên ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, một tính cách thật gan góc, cùng khả năng lao động thật đáng quý.

  • A Phủ không chỉ biết làm những công việc thường ngày như “đúc lưỡi cày”, “đục cuốc” mà còn “cày giỏi”, thậm chí có thể một mình làm những công việc lao động nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm: “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng”.
  • Sức khỏe của A Phủ là niềm mơ ước của nhiều gia đình, nhiều cô gái: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu”.

🡺 Dù xuất thân kém may mắn nhưng với sức mạnh thể chất, với tâm hồn trong sáng, chất phác và nhất là khả năng lao động tuyệt vời, A Phủ cũng rất xứng đáng có được một cuộc sống bình thường của một người dân lao động nghèo.

 Nạn nhân của cường quyền tàn bạo và những hủ tục vô lý, tàn nhẫn ở rẻo cao Tây Bắc. 

- Chỉ vì đánh con trai quan thống lý, A Phủ đã phải hứng chịu những trận đòn dã man của tên địa chủ, cường hào miền núi Pá Tra. Hắn cho trói A Phủ, bắt quỳ ở giữa nhà rồi cho bọn trai làng xô đến đánh. 

- Không chỉ bị đánh lên đánh xuống, A Phủ còn phải “nộp vạ”. Có ba tầng “nộp vạ”:

  • Cho người bị đánh (A Sử);
  • "Cho thống quan năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào”;
  • Cho “các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay”, “mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ”.

- Sau đám “xử kiện”, chính A Phủ đã tự tay cầm dao, chân đau bước tập tễnh đi làm thịt lợn hầu chính những kẻ đã “đánh hội đồng” mình, những kẻ đã làm cho mình từ nay trở thành nô lệ cho nhà thống lý.

Sức sống mãnh liệt và niềm khát khao tự do 

- Vì để hổ vồ mất bò A Phủ đã bị “trói đứng vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai”. Nhưng chính trong khoảnh khắc cận kề cái chết ấy của A Phủ, nhà văn đã cho mọi người thấy cái sức sống mãnh liệt đến mức nào của anh. Được Mị cắt bỏ hết dây trói, mặc dù “khuỵu xuống”, chân “không bước nổi” nhưng A Phủ vẫn “quật sức vùng lên”“chạy”.

🡺 Cùng với Mị, nhân vật A Phủ đã thể hiện một cách sống động và chân thực những nét tính cách của người dân lao động miền núi nói chung và người Mông nói riêng. Đó là những con người có bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong lại sôi nổi, mạnh mẽ một niềm ham sống, khát khao tự do và hạnh phúc. 

III. Đánh giá

1. Giá trị hiện thực

 - Tố cáo chế độ phong kiến, chúa đất đã bóc lột, buộc người lao động nghèo khổ vào vòng nô lệ; chà đạp lên tình yêu, hạnh phúc và phẩm giá con người.

- Nói lên sự thực có tính quy luật: con người bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến lúc nào đó thì dường như bị tê liệt tinh thần phản kháng và mặt khác, đến lúc nào đó, khi sự ý thức về quyền sống trỗi dậy, thì sức sống tiềm tàng cũng mạnh mẽ, kỳ diệu.

2. Giá trị nhân đạo 

- Thể hiện lòng xót thương, cảm thông vô hạn của Tô Hoài đối với nhân dân lao động miền núi, đặc biệt là người phụ nữ, những kiếp đời bi kịch đang chết dần, chết mòn vì đau khổ.

- Thể hiện  niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch, lương thiện, giàu tình người của những con người bị đoạ đày, lăng nhục, khát khao tìm đến ánh sáng của cuộc đời mới

3. Nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật. 

- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.

- Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.

D. Gợi ý kết bài 

Mẫu số 1

“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.

Mẫu số 2

Tây Bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả năng sản sinh ra năng lượng dồi dào cũng như truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ để họ viết nên những trang thơ, trang văn lấp lánh. Phả vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động. Đó là sức sống bền bỉ, tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên. Truyện ngắn của Tô Hoài không chỉ ca ngợi vẻ đẹp về tình yêu cuộc đời của con người Tây Bắc mà còn dấy lên ở mỗi chúng ta niềm tin vào sức sống bất diệt, tin vào tự do hạnh phúc. Và để có được điều đó mỗi chúng ta phải tự mình đấu tranh tự mình vươn lên cho những điều tốt đẹp của cuộc đời mình.

E. Tư liệu liên hệ, mở rộng

1. “Nông dân các dân tộc Tây Bắc bao năm gian khổ chống đế quốc và bọn chúa đất … Nhìn lướt qua nơi thế lực phong kiến còn đương kéo dài lùi đất nước lại hàng trăm năm trước, nhưng: các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Họ thật đẹp và yêu đời … còn một phút sống vẫn còn chờ đợi, vẫn mong, vẫn tin một ngày bình yên, yên vui của tình yêu và đất nước.” (Lời phát biểu của Tô Hoài năm 1960 về chủ đề của truyện “Vợ chồng A Phủ”)

2. “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải phá vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.” (Tô Hoài)

3. "Muốn viết được, nhất thiết phải biết quan sát để ấn sâu thêm trí nhớ, giúp sức cho trí tưởng tượng. Cái cách, cái lối quan sát ấy không có gì đặc biệt và bí ẩn. Đó chỉ là thói quen mài giũa cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ, đó là việc bắt sức óc chăm chú tìm tòi ra sự chuyển động của mọi vật". (Tô Hoài) 

4. “Văn chương của ông hướng về những con người, số phận, cuộc đời lấm láp, đời thường. Ông ra đi vì tuổi trời nhưng văn chương của ông vẫn còn nguyên giá trị.” (Phạm Xuân Nguyên)

5. “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét thành hình trong tâm trí tôi. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác.” (Tô Hoài)

6. Tô Hoài là "cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xuôi thời kì Cách mạng". (Hà Minh Đức)

7. “Nhà văn có một năng khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa hiểu theo nghĩa vận dụng toàn bộ các giác quan để ghi nhận cảnh vật bên ngoài với tất cả hình dáng, sự hoạt động, âm thanh, màu sắc, mùi vị của nó… Ông có một trí tưởng tượng mạnh mẽ đồng thời có một vốn ngôn ngữ giàu có để tạo nên những bức tranh chân thực, góc cạnh và đầy hương sắc". (Nguyễn Đăng Mạnh)

8. “So với các cây bút đương thời, Tô Hoài có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến đấy. Việc viết lách đối với ông là một thứ lao động hàng ngày”. (Vương Trí Nhàn)

  • 44 lượt xem
Sắp xếp theo