Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh

Ngày Độc lập đã tới!

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập.”

(Báo Cứu quốc, số 35)

A. Hệ thống luận điểm chính

B. Gợi ý mở bài

Mẫu số 1

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã anh dũng đương đầu với rất nhiều thế lực thù địch, tạo nên những chiến công hiển hách. Những năm tháng “không thể nào quên” ấy đã đi vào thơ ca như những minh chứng hùng hồn của thời đại máu lửa, của những con người Việt Nam kiên trung, bất khuất. Kế thừa tinh thần yêu nước và cảm hứng nhân văn của “Nam quốc sơn hà” và “Bình Ngô đại cáo”, “Tuyên ngôn độc lập” của chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là văn kiện lịch sử trọng đại mà còn mang đậm giá trị văn học – một áng văn chính luận mẫu mực cả về nội dung và nghệ thuật.

Mẫu số 2

“Giọng của người đâu phải sấm trên cao,
Ấm từng tiếng thấm vào lòng mong ước,
Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước,
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”.

Đó là những dòng thơ được nhà thơ Tố Hữu sáng tác, ghi lại cảm xúc vào sự kiện đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Ngày 2/9/1945, trước hơn 50 vạn đồng bào cả nước với xúc cảm đặc biệt, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" tại Quảng trường Ba Đình. Giọng của Người là giọng của non sông, đất nước, thấm vào trái tim, khối óc của mỗi con người đất Việt. Bản Tuyên ngôn không chỉ là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn mà còn là đỉnh cao của văn chương chính luận nước nhà.

Mẫu số 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, thiên tài, người anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc với nhiều tác phẩm đặc sắc ở nhiều thể loại khác nhau. Đặc biệt, phải kể đến tác phẩm được chính Người đánh giá là “bài viết hữu ích” nhất trong sự nghiệp cầm bút của người: Tuyên ngôn độc lập. Tác phẩm ra đời vào năm 1945, là đỉnh cao nghệ thuật văn chính luận, đạt đến độ mẫu mực cả về nội dung và nghệ thuật.

C. Phân tích chi tiết

I. KHÁI QUÁT CHUNG

1. Tác giả: Hồ Chí Minh (1890 - 1969)

Cuộc đời

- Hồ Chí Minh tên gọi thời niên thiếu là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.

- Tuổi trẻ người đã học chứ Hán trong gia đình, học trường Quốc học Huế và có một thời gian ngắn dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) với tên gọi là Nguyễn Tất Thành.

- Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

- Tháng 2/1942, Người về nước hoạt động và thành lập mặt trận Việt Minh, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1945).

- Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc “Tuyên ngôn độc lập” tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), và sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên (1/1946), Người được bầu làm chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Năm 1990, nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lớn.”

⇒ Hồ Chí Minh là người chiến sĩ kiên cường trong suốt nửa thế kỉ tham gia đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Trong sự nghiệp Cách mạng lớn lao đó, có một di sản đặc biệt để lại cho dân tộc, đó là sự nghiệp văn học.

Sự nghiệp

- Quan điểm sáng tác

  • HCM xem văn nghê là một hoạt đông tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng; nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời, góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội.
  • HCM đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ.
  • HCM luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xã lạ, nặng nề.

- Phong cách nghệ thuật:

  • Văn chính luận:

+ Mục đích viết ra chủ yếu nhằm đấu tranh chính trị, nhằm tiến công trực diện kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc qua những chặng đường lịch sử.

+ Văn chính luận của HCM bộc lộ tư duy sắc sảo, giàu tri thức, giàu tính chiến đấu và vận dụng hiệu quả nhiều phương thức biểu đạt.

  • Truyện và kí:

+ Là những tác phẩm mở đầu và góp phần đặt nền móng đầu tiên cho văn xuôi cách mạng.

+ Ngòi bút chủ động và sáng tạo (khi chân thực, gần gũi; khi châm biếm, thâm thúy,…)

+ Chất trí tuệ và tính hiện đại là những nét đặc sắc trong truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc.

  • Thơ ca:

+ Nhiều bài viết theo hướng cổ thi hàm súc, uyên thâm; có kết hợp những nét đẹp thơ hiện đại.

+ Vận dụng linh hoạt nhiều thể loại và phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.

2. Tác phẩm (1945)

- Ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội Anh (thay mặt quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật) đang tiến vào Đông Dương còn ở phía Bắc, bọn Tàu Tưởng và tay sai, đã trực sẵn ở biên giới. Bọn phản động tìm cách ngóc đầu dậy hòng lật đổ chính quyền cách mạng.

“Mâu thuẫn giữa Anh- Mỹ- Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh và Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương” (nhận định của Đảng trong Hội nghị toàn quốc ngày 15 tháng 8 năm 1945).

- Thời gian này, hội nghị Tê-hê-răng và Xanh Frăng-xcô đưa ra giao ước: các nước thắng trận được trở lại cai trị các nước đã từng là thuộc địa, còn các nước là thuộc địa của phe Phát xít thì quân Đồng minh sẽ đến giải giáp và giao quyền tự trị cho nước đó. Để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai của mình, Pháp đã tung ra trước dư luận quốc tế: Pháp có quyền quay trở lại Đông Dương.

- Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân.

- Ngày 26 tháng 8 năm 1945,Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập.

- Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào.

II. PHÂN TÍCH

1. Đối tượng và mục đích của bản Tuyên ngôn

Đối tượng của bản Tuyên ngôn

(Viết cho ai?)

- Tất cả đồng bào Việt Nam.

- Nhân dân thế giới.

- Các lực lượng ngoại bang nhân danh đồng minh diệt phát xít Nhật (Pháp, Mĩ, Anh, Trung Quốc,..)

Mục đích của bản
Tuyên ngôn

(Viết để làm gì?)

- Tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến.

- Tuyên bố khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Cho thế giới thấy rõ bộ mặt xảo trá của thực dân, phát xít; đồng thời bác bỏ dứt khoát các luận điệu của giặc ngoại xâm muốn quay lại đất nước ta.

 

2. Cơ sở pháp lí của bản Tuyên ngôn

- Trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mĩ và của Pháp để làm cơ sở pháp lí cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:

  • Tuyên ngôn độc lập của Mĩ năm 1776: “Tất cả mọi người ... quyền mưu cầu hạnh phúc”
  • Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do ... bình đẳng về quyền lợi.”

- Lời văn được tác giả trích từ hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ:

  • Đó là những danh ngôn, những chân lí lớn của nhân loại, không ai có thể bác bỏ được. Đó đồng thời lại là tư tưởng của chính tổ tiên người Pháp, Mĩ, vậy nên không có lí gì người Pháp, Mĩ (dù là thực dân, đế quốc đi nữa) lại dám phản bác lại tổ tiên của mình.
  • Hồ Chí Minh từng nói, đối với kẻ địch “chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết”. Việc dẫn ra những tuyên ngôn kia của cách mạng Pháp và Mĩ để mở đầu cho Tuyên ngôn Độc lập là một lập luận “vừa kiên quyết vừa khéo léo”, có thể gọi là thủ pháp “gậy ông đập lưng ông” rất đích đáng của Hồ Chí Minh.

- Mặt khác, mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà trích dẫn hai bản Tuyên ngôn kia có ý nghĩa:

  • Đặt ba cuộc Cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó Cách mạng Việt Nam đã cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ mà hai cuộc cách mạng của nước Pháp, Mĩ đã làm.
  • Bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập.” (Nhiệm vụ của Cách mạng Mĩ) và: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.” (nhiệm vụ của Cách mạng Pháp)

- Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại với bọn đế quốc xâm lược, vấn đề hàng đầu là độc lập dân tộc. Vì thế, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân đặt ra trong Tuyên ngôn độc lập của Mĩ, Hồ Chí Minh đã “suy rộng ra” về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do.”

⇒ Với cách tiếp cận mới về quyền dân tộc từ quyền con người, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân tộc đã đi vào phong trào cách mạng thế giới, trở thành một giá trị phổ biến, được nhiều nước thừa nhận và tôn trọng.

⇒ Đây là một đóng góp lớn về tư tưởng của Người đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ vào nửa sau thế kỉ XX.

3. Cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn

a. Tội ác của thực dân Pháp

- Chính trong quá trình tìm đường cứu nước, đến nơi được cho là luôn có “tự do, bình đăng, bác ái”, Người nhận ra rằng: “Đâu đâu trên thế gian này cũng chỉ có hai hạng người, một hạng người áp bức bóc lột và một hạng người bị áp bức bóc lột. Đâu đâu trên thế gian này cũng chỉ có một sự thật là tình ái hữu giữa những người vô sản”.

- Hồ Chí Minh đã dành phần lớn dung lượng bản Tuyên ngôn để tố cáo, vạch trần bản chất cướp nước, giả danh nhân đạo, lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, phi nhân, phi nghĩa, trái với nhân đạo và chính nghĩa của thực dân Pháp. Sự “bịp bợm” đó được nêu rõ:

- Pháp kể công “khai hóa”:

Về chính trị

chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man.

Về kinh tế

chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Về văn hóa – xã hội – giáo dục

nhà tù nhiều hơn trường học, chính sách ngu dân,…

- Pháp kể công “bảo hộ”:

  • Khi thực dân Pháp thất thế thì sẵn sàng thỏa hiệp và đầu hàng phát xít Nhật, làm cho nhân dân ta “một cổ hai tròng”: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”; và khi “Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”
  • Tội ác mà thực dân Pháp gây ra cho dân tộc ta thật là dã man: chúng thẳng tay khủng bố Việt Minh. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

- Trước đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguồn gốc của mọi niềm đau nỗi khổ của con người nô lệ mất nước và con người cùng khổ là chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Người đã viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” vào năm 1925 trên tinh thần luận tội kẻ thù đã xâm phạm quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân con người và dân tộc, không chỉ ở Việt Nam, Đông Dương mà còn ở cả châu Phi, châu Mỹ Latinh.

- Bản chất, tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong “Tuyên ngôn độc lập” một lần nữa muốn nói rõ cho nhân dân thế giới rằng: chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Việc bóc trần bộ mặt xấu xa của thực dân Pháp ở Việt Nam còn là thông điệp cảnh báo cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới hãy đứng lên chống chế độ thực dân đang bành trướng khắp các châu lục.

b. Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam

- Bác đã dẫn: Dân tộc ta - nhân dân ta vốn yêu chuộng hoà bình, khao khát tự do - độc lập; từng kêu gọi Pháp liên minh chống Nhật; gan góc chống ách nô lệ của Pháp trên 80 năm...; Gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít; khoan hồng với kẻ thù bị thất thế; giành độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ Pháp; dân tộc ta nổi dậy giành chính quyền, đánh đổ chế độ phong kiến - thực dân, lập nên chế độ Dân chủ cộng hoà; thoát ly quan hệ với thực dân Pháp; xoá bỏ mọi hiệp ước, mọi đặc quyền - đặc lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam.

- Tuyên Ngôn độc lập đã hoàn toàn phủ nhận vai trò của Pháp ở Việt Nam.

- Đồng thời, nêu cao tinh thần yêu nước và truyền thống anh dũng của dân tộc ta; khẳng định quyền tự do và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Một chế độ xã hội đảm bảo các giá trị làm người đã được lịch sử gọi tên và thừa nhận.

⇒ Bác đã tạo ra một biên bản lịch sử từ sự thật hiển nhiên không thể chối cãi của đời sống.

c. Lời tuyên bố độc lập

- Độc lập và tự do là thành quả đấu tranh bền bỉ, gan góc, lâu dài của dân tộc ta: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !".

- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ Chủ tịch mới tuyên bố một cách đanh thép, hùng hồn: "Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".

- Hồ Chủ tịch khẳng định "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" vì đó là điều phù hợp với đạo lí và pháp lí.

  • Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi người "đều sinh ra có quyền bình đẳng (...), có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" ("Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của nước Mĩ).
  • "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" bởi lẽ "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791).

⇒ Bộc lộ niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước, con người Việt Nam.

- Cách mạng tháng Tám thành công "dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp", nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời: "và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập".

⇒ Đó là lẽ phải, là một thực tế lịch sử không ai chối cãi được.

- Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động lòng người: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

  • Cụm từ "Toàn thể dân tộc Việt Nam" nói lên sức mạnh đại đoàn kết, triệu trái tim Việt Nam đều chung một nhịp đập, không kẻ thù nào có thể khuất phục.
  • "Tự do hay là chết !", "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại nền độc lập !". Quyết tâm ấy được Hồ Chủ tịch tuyên bố đanh thép hùng hồn. Con người Việt Nam "quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

⇒ Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp đang âm mưu tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

⇒ Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá về độc lập tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa, Người lại Tuyên bố: "Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ !". (Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến - 19.12.1946).

III. ĐÁNH GIÁ

1. Giá trị lịch sử

- Ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” trước hàng chục vạn đồng bào tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập, tự do; cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh gần một trăm năm của dân tộc ta để có được quyền thiêng liêng đó.

- Bản Tuyên ngôn đã tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam và mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta: kỉ nguyên của độc lập, tự do, nhân dân làm chủ đất nước.

- Bản Tuyên ngôn cũng cho chúng ta thấy bộ mặt xảo trả của thực dân cướp nước, bác bỏ dứt khoát những luận điệu của giặc khi muốn quay lại xâm lược nước ta.

2. Giá trị văn học

- “Tuyên ngôn Độc lập” là áng văn yêu nước lớn của thời đại. Tác phẩm khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập của dân tộc, gắn độc lập dân tộc với quyền sống của con người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền thống nhân đạo của con người Việt Nam.

- “Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn, cô đọng, gây ấn tượng sâu sắc. Kết cấu tác phẩm mạch lạc, chặt chẽ, chứng cứ cụ thể, xác thực, lập luận sắc bén, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ tác phẩm chính xác, gợi cảm, tác động mạnh mẽ vào tình cảm nhận thức của người nghe, người đọc, có sức thuyết phục cao; là đỉnh cao của văn chính luận.

D. Gợi ý kết bài

Mẫu số 1

Bằng ngòi bút chính luận sắc bén, lập luận chặt chẽ, đanh thép cùng dẫn chứng thuyết phục, “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố, đánh dấu một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, tác phẩm cũng là đỉnh cao của nghệ thuật viết văn nghị luận, là áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại.

Mẫu số 2

Dưới ngòi bút tài năng, sắc sảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Tuyên ngôn độc lập không chỉ là bản khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, theo đuổi mục tiêu “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”, chấm dứt bóng tối của đêm trường nô lệ mà còn là áng văn chính luận mẫu mực, đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật lập luận. Sau “Bình Ngô đại cáo”, “Tuyên ngôn độc lập” cũng xứng đáng được gọi là áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.

E. Tư liệu mở rộng, liên hệ

1. “Ngày vinh quang của Tổ quốc, ngày vui mừng nhất của nhân dân, ngày làm cho chúng ta phải in sâu vào đầu óc những thắng lợi vẻ vang trong khi tranh đấu giành quyền độc lập, ngày làm cho chúng ta không thể sao nhãng được nhiệm vụ đoàn kết, tranh đấu, hi sinh để bảo vệ nền độc lập.

Ngày Độc lập đã tới!

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập.”

(Báo Cứu quốc, số 35)

2. “Thơ Người nói ít mà gợi nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lắng không phô diễn mà như cố khép lại đường nét để cho người đọc tự thưởng thức lấy cái phần ý ở ngoài lời.” (Nhà văn Pháp Rô-giê Đơ-nuy)

3. "Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp

Mây gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông

Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong"

(Hồ Chí Minh)

4. “Về văn phong, cách nói và cách viết của Hồ Chủ Tịch có những nét rất độc đáo: Nội dung khảng khái, thấm thía đi sâu vào tình cảm của con người, chinh phục cả trái tim và khối óc con người ta: Hình thức sinh động, giản dị, giàu tính dân tộc và tính nhân dân.” (Trường Chinh)

5. “Hôm nay sáng mồng 2 tháng 9

Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình

Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín

Bỗng vang lên tiếng hát ân tình

Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh

Người đứng trên đài, lặng phút giây

Trông đàn con đó, vẫy hai tay

Cao cao vầng trán, ngời đôi mắt

Độc lập bây giờ mới thấy đây.”

(Tố Hữu)

6. “Một ông già gầy yếu, nhưng tình thần hiên ngang vẫn lộ ra trong bộ điệu ung dung, trong vầng trán cao mênh mông và đôi mắt sáng.” (Nguyễn Phúc Giác Hải)

7. “Tôi tuy viết nhiều nhưng chưa lần nào tạo được bài viết hữu ích như lần này” (Chủ tịch Hồ Chí Minh)

8. “Là người đã viết Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925, Hồ Chí Minh cảm thấy “sảng khoái nhất” khi cầm bút viết những lời kết thúc cho chế độ thực dân Pháp và khai sinh ra chế độ Dân chủ Cộng hòa tại Việt Nam” (Trần Đình Sử)

9. "Ông Hồ Chí Minh không những đã giải phóng đất nước của ông, thay đổi chiều hướng thuộc địa ở cả châu Phi lẫn châu Á, mà ông còn làm được một điều đáng chú ý hơn: Ông đã dùng tới nền văn hóa và tâm hồn của kẻ địch của ông.” (Ðây-vít Han-bớc-xtơn)

10. “Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.” (Tác giả Trần Dân Tiên)

11. “Bác Hồ là cây đại thụ Việt Nam mà rễ ăn sâu xuống lòng đất đời đời xanh tươi. Bóng mát che rợp cả đất nước ba phần tư thế kỷ XX”. (Đoàn Minh Tuấn)

12. “Giờ phút này, Người đang thay mặt cho cả dân tộc hái quả của 80 năm đấu tranh. Bữa đó, chúng tôi thấy rõ niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt còn võ vàng của Người”. (Những năm tháng không thể nào quên – Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

  • 13 lượt xem
Sắp xếp theo