Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

“Điều may mắn với tôi là được sống trong những năm tháng hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu mình và hiểu người hơn.” (Nguyễn Khoa Điềm)

A. Hệ thống luận điểm chính

B. Gợi ý mở bài 

Mẫu số 1

“Có mối tình nào hơn

Tổ Quốc?”

Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng và cảm hứng nồng nàn về Tổ Quốc, các nhà thơ – chiến sĩ đã để lại cho núi sông biết bao vần thơ đẹp về con người, đất nước Việt Nam. Nếu các nhà thơ khác cùng thời dùng những hình ảnh kì vĩ, tráng lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm lại cảm nhận về đất nước qua những điều hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị gắn liền với những con người như máu thịt, hơi thở. Đất nước ấy tắm đẫm trong hương liệu văn hóa dân gian, trong tư tưởng lớn của thời đại: “Đất Nước của Nhân Dân”.

Mẫu số 2

Đất Nước là một đề tài muôn thuở của thơ ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước cũng được tạc thành nhiều vẻ đẹp khác nhau từ những góc nhìn khác nhau. Tố Hữu thấy Đất Nước trong bóng dáng người anh hùng, người Mẹ. Chế Lan Viên “tìm hình của nước” trong vị cha già Hồ Chí Minh. Nguyễn Trãi tự hào về triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần… còn Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ chống Mỹ lại tìm vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục mang đậm dấu ấn tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.

C. Phân tích chi tiết 

I. KHÁI QUÁT CHUNG

1. Đề tài

- “Đất Nước” được hiểu là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có cương giới, lãnh thổ riêng, có sự gắn kết sâu sắc với nhau về văn hóa, phong tục, tập quán, có tiếng nói, ngôn ngữ riêng, có truyền thống lịch sử, văn hiến lâu đời.

- Đất Nước là một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi tác giả thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mỹ.

  • Ở thời trung đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc”, vì quan niệm đất nước gắn với công lao của đế vương, của các triều đại:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”

(Lý Thường Kiệt)

Hay:

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”

(Nguyễn Trãi)

  • Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có bước tiến qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân.” Nhưng dẫu sao nó vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.
  • Thơ ca Việt Nam thời kì 1945 – 1975 thì tư tưởng đất nước – nhân dân được thế hệ các nhà thơ chiến sĩ nhìn nhận một cách toàn diện, sâu sắc hơn trong mối quan hệ riêng – chung, tôi – ta, ở đó có sự hòa quyện và tỏa sáng của tình yêu đất nước và đôi lứa. Đất nước của nhân dân đã được các nhà thơ thể hiện đặc sắc và thành công như:

“Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng.”

(Nguyễn Đình Thi)

Hay:

“Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ giữa đời

Và như thế nhân dân cao vời vợi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời.”

(Thanh Thảo)

Đất nước cũng lung linh, kì ảo trong hình ảnh so sánh:

“Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

(Thanh Hải)

⇒ Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để vần thơ của ông mang lại cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ mới về đất nước thông qua cái nhìn đa diện, đa chiều.

2. Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm (1943), sinh ra trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng ở thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Quê gốc của ông ở làng An Cựu, xã Thủy An.

- Ông học tập và trưởng thành trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rồi trở về Nam tham gia chiến đấu chống Mĩ.

- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ mà tài năng và tên tuổi được khẳng định trong thời kì chống Mĩ cứu nước.

- Phong cách nghệ thuật: Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước, về dân tộc.

3. Tác phẩm

- Trường ca “Mặt đường khát vọng” – một tác phẩm “hội tụ không chỉ độ chín của tư tưởng, nhận thức mà còn thể hiện một phong cách thơ có chất giọng riêng”.

  • Sáng tác ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
  • Nội dung: phản ánh sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm bị chiếm ở miền Nam đang xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược; đồng thời thể hiện những suy ngẫm và quan điểm của nhà thơ về đất nước, dân tộc.

- Đoạn trích “Đất Nước”: nằm ở phần đầu chương V của trường ca.

  • Là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
  • Tác giả bày tỏ suy nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sắc của bản thân về đất nước trên nhiều bình diện địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục,… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân dân.

- Đoạn trích chia làm hai phần:

Phần một Từ đầu đến…  "Đất Nước muôn đời".

Cảm nhận của tác giả về đất nước trên các phương diện cuộc sống của con người: địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục

Phần hai Còn lại

Tác giả đúc kết nên một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân dân.

⇒ Giữa hai phần gần như không có sự tách biệt rõ ràng về nội dung vì ở phần nào tác giả cũng thể hiện sự cảm nhận về Đất Nước trên nhiều mặt, nhưng mỗi phần có một trọng tâm khác nhau trong nội dung tư tưởng và cảm xúc.

  • Ở phần 1: Đất Nước được tác giả cảm nhận từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng ngày, sau đó mở rộng ra với "Thời gian đằng đẵng – Không gian mênh mông" trong những truyền thuyết về thời dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận của nhà thơ hướng vào sự hiện diện của Đất Nước trong mỗi con người; từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi công dân đối với Đất Nước.
  • Ở phần sau: Đất Nước được nhà thơ đúc kết thành quan niệm: "Đất Nước của Nhân dân", chính Nhân dân đã làm nên đất nước. Khái niệm Đất nước được gợi nên từ những thắng cảnh thiên nhiên, những địa danh gắn với những tên người bình dị… Đất Nước gắn với bề dày lịch sử bốn nghìn năm với những lớp người không nhớ mặt đặt tên. Họ từng sống rất giản dị và bình tâm, nhưng cũng chính họ là những người đã làm nên Đất Nước, truyền lại cho con cháu muôn đời. Cuối cùng, mạch suy tưởng của tác giả dẫn đến một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

II. PHÂN TÍCH

1. Cắt nghĩa, lý giải nguồn cội Đất Nước

1.1. 9 câu thơ đầu – Đất Nước có từ bao giờ?

- Đoạn thơ mở đầu bình dị, tạo sự gần gũi, thân thiết, viết theo thể khẳng định:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.”

  • Ta: là một khái niệm mơ hồ, không xác định.
  • Ta có thể là chủ thể trữ tình – người kể chuyện, người đại diện cho cả thế hệ trẻ. Hoặc đó có thể là bất cứ người dân Việt Nam nào, ở bất cứ thời đại nào.
  • Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; Đất Nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.

⇒ Cách nói ấy thể hiện sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của Đất Nước qua mấy nghìn năm lịch sử nhào nặn.

- Câu thơ tiếp theo, nhà thơ diễn tả vẻ đẹp Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể"

  • “Ngày xửa ngày xưa”: thời gian nghệ thuật mang tính phiếm chĩ, huyền thoại.
  • Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời ru của bà, của mẹ. Chính những câu chuyện cổ tích và những bài hát ru thuở còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân – thiện – mỹ và rồi lớn lên ta biết yêu thương đất nước, con người.

- Không chỉ có trong cái “ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu.

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn.”

  • Câu thơ gợi nhắc về câu chuyện “Sự tích trầu cau” được xem là xa xưa nhất. Tục ăn trầu cũng từ đó mà nên. Như vậy, thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là bốn nghìn năm gìn giữ phong tục của dân ta.
  • Miếng trầu cũng là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi, cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt.

- Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống, mà một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.”

  • Hai chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh.

⇒ Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc, bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng, bất khuất: Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Ơn,…

  • Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam, cây tre hiền hậu ở mỗi làng quê. Nó như sư đồng hiện các phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: chất phác, đôn hậu, yêu hòa bình nhưng cũng kiên cường, bất khuất trong chiến đấu. Tre đứng thẳng, hiên ngang, bất khuất, cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”.

- Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu

  • Đó là vẻ đẹp bình dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong tục tóc “bới sau đầu” (tóc cuộn búi sau gáy) tạo nên vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới

Để chi dài cho rối lòng anh.”

  • Tập quán bới tóc sau đầu không phải tự nhiên mà có. Trong quan niệm của nhân dân, nhất là những người nông dân cày cuốc, cái đẹp gắn liền với cuộc sống hàng ngày, với công cuộc mưu sinh vất vả, vì vậy cái đẹp phải gọn gàng.

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

  • Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.”

Hay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta tình nặng nghĩa đầy

Dù ba vạn chín nghìn ngày cũng chẳng xa.”

  • Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ, nhẹ nhàng mà thấm đượm nghĩa tình. Gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm muối càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì nghĩa tình càng đong đầy.

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.”

  • Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ về tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau để nhà vững chãi, bền chặt, tránh mưa gió, thú dữ. Đó cũng là tổ ấm cho gia đình đoàn tụ bên nhau, siêng năng, tích cực góp mỡ dồn máu thành sự sống. Cũng từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột ra đời.
  • Đồng thời, đó cũng là tập quán của cha ông ta, đặt tên con xấu để phòng trừ tai họa, nhân dân ta vẫn quan niệm đặt tên hay, tên đẹp dễ bị thần thánh bắt đem đi. Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, vợ chồng bà cụ Tứ đặt tên cho hai đứa con: một là Tràng, một là Đục, đó là tên thứ đồ nghề của ông phó mộc.

- Dân ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:

“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.”

  • Câu thơ gợi nhắc đến bài ca dao:

“Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

  • Thành ngữ "một nắng hai sương" gợi nên sự cần cù, chăm chỉ của ông cha ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó.

⇒ Thấm vào trong từng hạt gạo bé nhỏ chính là mồ hôi, vị mặn nhọc của nhân dân bao đời nay.

- Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với dùm tự hào:

"Đất Nước có từ ngày đó."

"Ngày đó" là ngày nào, chúng ta không rõ, nhưng chắc chắn là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hoá - là có Đất Nước.

1.2. 20 câu tiếp: Đất Nước là gì?

a. 6 câu đầu: Bình diện địa lý

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm.”

⇒ Khi nhà thơ nhắc đến hai nhân vật “anh” – “em” là muốn nói tới thời đại ngày nay, khi cả hai đều sinh ra và lớn lên, sinh sống.

  • Nhà thơ dùng phép chiết tự tách đôi khái niệm đất nước thành hai vật thể hữu tình: "Đất là ..."; "Nước là ... "

⇒ Bằng cách ấy, khái niệm trừu tượng xa xôi kia trở thành cụ thể và gần gũi. Thì ra đất nước gắn bó với máu thịt con người. "Đất" là con đường hằng ngày anh vẫn đến trường. "Nước" là thứ hằng ngày em vẫn tắm ở bến quê.

⇒ Đất nước không phải ở đâu xa mà nó gắn với kỷ niệm của mỗi chúng ta. Đất Nước làm cho tình yêu anh và em đẹp hơn.

- Cứ thế, từ cái riêng, nhà thơ nâng lên thành cái chung:

“Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”

  • Tất cả đều bình dị, cụ thể, gần gũi với anh, với em, với mỗi chàng trai, cô gái. Nó thấm vào máu, vào hồn của mỗi chúng ta. Tình yêu của con người Việt Nam trong sáng như Đất, Nước. Họ chọn Đất Nước là nơi hò hẹn, gặp gỡ của tình yêu. Đất Nước chứng kiến cho tình yêu con người và con người đã hòa tình yêu của mình vào Đất Nước.
  • Câu thơ đậm đà chất dân ca, ca dao, gợi nhắc đến câu ca dao quen thuộc:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt.”

  • Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị cũng thật đáng yêu, đáng quý làm sao, nó cũng là vật chứng cho tình yêu đôi lứa:

“Gói một chùm hoa

Trong chiếc khăn tay

Cô gái ngượng ngùng

Sang nhà hàng xóm.”

(Phan Thị Thanh Nhàn)

- Và như thế, Đất Nước không chỉ là nơi nảy sinh tình yêu đôi lứa, mà còn là núi, sông, rừng, bể bao la, kỳ vĩ:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi "

  • Nhà thơ tiếp tục tách Đất và Nước ra làm hai để ông suy ngẫm và khẳng định không gian lãnh thổ của nước ta là “rừng vàng biển bạc” giàu đẹp.
  • Nguyễn Khoa Điềm vận dụng tinh tế câu hò Bình Trị Thiên:

“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc

Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi

Gặp nhau đây phân tỏ đôi lời

Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi đời về non xanh.”

b. 14 câu tiếp: Bình diện lịch sử

“Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông,

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.

Đất là nơi chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.”

  • Hai câu thơ đầu đoạn ngắn gọn, cô đọng kết hợp với từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông”, nhà thơ đã bao quát được chiều dài, chiều sâu thăm thẳm của thời gian và chiều rộng vô cùng của không gian Đất Nước. Từ đó ông khẳng định từ khi hình thành, phát triển đến nay.
  • Không gian lãnh thổ được tạo lập từ thuở sơ khai với những truyền thuyết về nguồn gốc tổ tiên. Nếu như Nguyễn Trãi phát hiện Đất Nước qua các triều đại phong kiến hùng mạnh thì Nguyễn Khoa Điềm lại đưa ta về với nguồn cội xa xưa của dân tộc qua huyền thoại “Chim về”, “Rồng ở”. Đó là Đất Nước của “Con rồng cháu tiên”. Mẹ Âu Cơ lấy cha Lạc Long Quân đẻ ra bọc trứng từ đó sinh ra khái niệm “đồng bào”. Và sự nghiệp mở mang bờ cõi được bắt đầu từ cuộc chia ly lịch sử đầu tiên của dân tộc: “Âu Cơ mang năm mười người con lên núi, Lạc Long Quân mang năm mươi người con xuống biển.” Chia ly mà vẫn gắn bó thủy chung vì bổn phận với non sông, đất nước, đó là một vẻ đẹp tạo nên bản sắc văn hóa của con người Việt Nam, để từ đó, tất cả dân tộc trên Đất Nước Việt Nam đều là anh em máu thịt.
  • Tư tưởng “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” (Hồ Chí Minh) được gợi ra từ chính cái tình yêu nguyên thủy ấy. Khổ thơ như một lời thầm thì về tình non nước, về cội nguồn truyền thống cha ông.
  • Lần thứ ba Nguyễn Khoa Điềm sử dụng biện pháp chiết tự, tách đôi khái niệm Đất Nước thành hai vật thể hữu tình để nói về tổ tiên người Việt, khẳng định những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Và chính những truyền thống bền vững ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ nối liền hiện tại và tương lai.

- Trên cơ sở đó, nhà thơ đã thức dậy lòng yêu nước, niềm tự hào về dòng máu Lạc Hồng, con rồng cháu tiên để nhắc nhở thế hệ trẻ phải biết kế tục truyền thống cha ông, đất nước:

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại.”

  • Yêu nước, lớp lớp con cháu người Việt nối bước cha ông, gánh vác trên vai trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước.
  • Cảm xúc và suy tư, trữ tình và chính luận khiến những câu thơ trên có sức lay động lớn đến tâm hồn người đọc về ý thức và trách nhiệm của mỗi chúng ta. Dù người mất hay còn thì truyền thống dân tộc, đạo lý cha ông, các thế hệ con cháu luôn phải biết kế thừa và phát huy.

- Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc:

“Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”

  • Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng, chạm vào tình cảm cội nguồn, khơi dậy trong lòng người truyền thuyết vua Hùng dựng nước.
  • “Tổ” là nguồn cội, là giống nòi của dân tộc, là tổ tiên thuở trước.

⇒ Xúc động và đáng trân trọng biết bao thái độ thành kính của nhà thơ khi hướng về quá khứ, cội nguồn của dân tộc.

1.3. 13 câu cuối: Trách nhiệm của tuổi trẻ đối với Đất Nước

- Sáu câu thơ đầu, nhà thơ nói về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái vĩnh hằng và cái thường ngày, giữa cá nhân và cộng đồng. Những câu thơ tự do được viết phóng túng, thoải mái nhưng lại thể hiện rõ tính triết luận nhằm bày tỏ những nhận thức sâu sắc của nhà thơ về Đất Nước, Nhân Dân:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần của Đất Nước.”

  • Đất Nước có “trong anh và em”. Như vậy, trong mỗi cá nhân, cá thể đều có hình hài, sức sống của Đất Nước, Nhân Dân.
  • Tuy trong anh và em chỉ có “một phần của Đất Nước” – nghĩa là nhỏ bé, giản dị thôi nhưng không vì thế mà tầm thường, vô nghĩa mà ngược lại rất đỗi thiêng liêng, tự hào sâu sắc bởi nó đã làm nên cuộc đời, số phận và sức sống của một Đất Nước, sức sống của mỗi chúng ta.

⇒ Từ ý tưởng quen thuộc “mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng”, Nguyễn Khoa Điềm đã viết lên lời thơ mềm mại, ngọt ngào, đằm thắm khiến cho tình cảm chung cũng trở nên nồng nàn, tha thiết như tình cảm đôi lứa.

- Lời thơ mang tính khẳng định dứt khoát, giản dị mà sâu sắc, cụ thể mà khái quát cao:

“Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”

  • “Cầm tay” là một biểu tượng của tình yêu thương thân thiết, của tình đoàn kết dân tộc.
  • Bằng việc kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa”, “nồng thắm” “vẹn tròn”, “to lớn” đi liền nhau, nhà thơ muốn gửi đến thông điệp: Đất Nước là sự hài hòa, thống nhất giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa nhân dân với cộng đồng.
  • Cần phải đặt vào hoàn cảnh sáng tác mới hiểu được ý thơ Nguyễn Khoa Điềm, ông viết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1971). Hiện thực diễn ra là dân tộc bị chia rẽ, đất nước bị chia cắt. Từ đó ta thấy được hình ảnh “hai đứa cầm tay”, “cầm tay mọi người” là những hình ảnh ẩn dụ gợi suy nghĩ: có tinh thần đoàn kết dân tộc sẽ có một Đất Nước vẹn tròn, vững mạnh.

- Từ hiện tại Đất Nước hôm nay, cái nhìn của nhà thơ hướng về viễn cảnh ngày mai của Đất Nước với một kỳ vọng sáng ngời tin yêu:

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng.”

  • “Mai này” – giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trở nên ngọt ngào, sâu lắng, thiết tha khi hướng cái nhìn về tương lai Đất Nước.
  • “Con ta” là hạnh phúc nối dài của “anh và em hôm nay”, không chỉ là những đứa con ruột thịt mà còn là thế hệ trẻ, tương lai của Đất Nước.
  • Hai chữ “lớn lên” thể hiện niềm tin của nhà thơ về sự lớn lên về thể chất, nhưng quan trọng hơn là trí tuệ, bản lĩnh của nhân dân trên hành trình lịch sử mang Đất nước đến “những tháng ngày mơ mộng”
  • Động từ “mang” đứng trước “Đất Nước” khiến Đất Nước không còn là một khái niệm trừu tượng, một hình ảnh mơ hồ chung chung mà trở nên hữu hình, hữu thể gắn chặt với bổn phận và tinh thần của lớp cháu con. Hành trình đó thật lâu dài và cao cả.
  • “ngày mai” ấy chính là những tháng ngày Đất Nước vững mạnh, tươi đẹp, sánh ngang với các cường quốc năm châu, không còn bóng tối của nghèo nàn, lạc hậu.

⇒ Những câu thơ được viết với cảm hứng lãng mạn, bay bổng cùng với sự gửi gắm bao niềm tin yêu, hy vọng vào tương lai tươi sáng của Đất Nước.

- Những câu thơ khép lại đoạn là lời nhắn nhủ chân thành, thấm thía của nhà thơ khi nói về sứ mệnh, bổn phận với Đất Nước:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…”

  • Tác giả liên tục lấy “em” để trò chuyện gần gũi, thân mật.
  • Điệp từ “phải biết” vừa là mệnh lệnh kêu gọi, vừa là lời thúc giục từ trái tim.
  • Từ “hóa thân” chính là sự tự nguyện cống hiến trọn vẹn tinh thần và công sức, tuổi trẻ của mình.

⇒ Tác giả muốn nhấn mạnh điều giản dị nhưng có ý nghĩa như một chân lí: Đất Nước chính là máu thịt, là sự sống của mỗi chúng ta. Vậy nên phải có vai trò, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ, đưa Đất Nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến xa.

2. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”

2.1. Phương diện địa lí

- Tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời mình để trở thành những địa danh, thắng cảnh:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước

Những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

⇒ Nghệ thuật liệt kê được sử dụng triệt để cùng động từ, điệp từ “góp” nhấn mạnh sự đóng góp to lớn của nhân dân, hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho Đất Nước.

⇒ Các danh lam thắng cảnh ấy được nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân:

- Ở miền Bắc:

  • Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ luôn thủy chung, son sắt một lòng. Thời gian trôi qua đi nhưng vẻ đẹp nghĩa tình luôn là bất tử. Họ đã hóa thân thành dáng núi làm đẹp thêm thắng cảnh quê hương.
  • Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm để lại” hình móng ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội). Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hy Cương (Phú Thọ), nơi đền thờ vua Hùng ngự trị.
  • Đó là “con cóc con gà quê hương” góp cho Hạ Long thành thắng cảnh.. Tất cả gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết của cha ông.

- Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút non Nghiên” với truyền thống hiếu học của dân ta.

- Về đến miền Nam:

  • Danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp, nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá bốn mùa.
  • Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm xa xôi là do người dân nào đã góp tên, đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển,… làm nên?

⇒ Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào sâu sắc và biết ơn Đất Nước cùng Nhân Dân. Chính “Nhân Dân” đã góp mình cho Đất Nước thêm giàu đẹp.

⇒ Những động từ “góp cho”, “để lại”, góp mình” được sử dụng tinh tế, đem đến những ý thơ mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với những liên tưởng đầy tính nhân văn như Chế Lan Viên từng viết:

“Tâm hồn tôi khi Tổ Quốc soi vào

Thấy nghìn núi trăm sông diễm lệ.”

- Để khắc họa những vẻ đẹp một Đất Nước của Nhân dân, tác giả chỉ chọn những đối cực có tính chất điển hình.

  • Cao cả nhất là các bậc thánh thần siêu nhiên như Thánh Gióng diệt giặc Ân cứu đất nước, các vua Hùng bền gan dựng nước. Song, nói đến Thánh Gióng mà chỉ nhắc đến con ngựa, nói đến vua Hùng mà chỉ nhắc đến chín mươi chín con voi → đó là thứ hào quang còn xót lại sau hàng nghìn năm lịch sử dài rộng, còn những nhân vật thiêng liêng ấy đã đi vào tiềm thức, trở thành tín ngưỡng dân gian.
  • Ở đối cực bên kia là những người trần mắt thịt như người học trò nghèo, những con cóc, con gà,… Tuy giản dị, đơn sơ nhưng tất cả đã lặng lẽ hiến dâng, cái mà họ “cho” còn hơn “nhận” rất nhiều.

- Cách nhìn vừa mới mẻ vừa đậm sắc thái dân gian đã giúp nhà thơ khẳng định và ca ngợi công lao của Nhân Dân đối với Đất Nước. Sự đóng góp vô tận, lớn lao của Nhân Dân đã được thể hiện qua những câu thơ tràn dòng sâu sắc, đầy xúc cảm:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

  • Nếu “bốn nghìn năm” là “thời gian đằng đẵng” của lịch sử dựng nước và giữa nước thì cụm từ “đi đâu ta cũng thấy” lại gợi hình ảnh về “không gian mênh mông”. Lặng lẽ, bền bỉ cùng dòng thời gian ấy, trung hậu, kiên cường trong không gian ấy là vời vợi “những cuộc đời” của Nhân Dân.
  • Động từ “hóa” không chỉ gợi ra những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, xương máu mà còn ngợi ca sức mạnh, sự hóa thân kỳ diệu của những con người vô danh, thầm lặng “một nắng hai sương” trong thời bình, kiên cường “trồng tre mà đánh giặc” trong thời chiến, nhân hậu, nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sống hàng ngày, để làm nên núi sông ta …

2.2. Phương diện lịch sử

“Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”

⇒ Dân tộc ta là một dân tộc oai hùng với trang sử vàng chói lọi. Đó cũng là lý do để Nguyễn Khoa Điềm khắc họa Đất Nước của Nhân Dân, lịch sử của nhân dân.

- Đó là lịch sử của hai công cuộc chiến đấu, xây dựng và giữ gìn:

“Em ơi em

Hãy nhìn vào rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước”

- Trong cái nhìn ấy, những người thanh niên thời chống Mỹ đã cùng nhau:

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con.”

  • Những cụm từ “người người lớp lớp”, “con gái con trai” gợi ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của nhân dân.
  • Cả đoạn không hề có một tên riêng cũng không hề hướng tới một đối tượng cụ thể → Họ đã thầm lặng mà lớn lao, lặng lẽ hiến dâng mồ hôi, xương máu, từ tâm hồn, trí tuệ cho đến tuổi xuân và hạnh phúc lứa đôi để làm nên Đất Nước muôn đời.
  • Cả hai người con gái, con trai đều đã có một sự phân công tự nguyện, đánh giặc hay nuôi con là thiên chức của mỗi người, như một lẽ thường. Song, để hoàn thành những việc ấy không phải chuyện giản đơn, người con trai ra trận có nhiều anh hùng để lại tên tuổi với đời, nhưng còn nhiều hơn gấp bội lần những người đã ra đi mà mãi mãi không trở về. Người con gái chịu cảnh cô đơn, lẻ bóng nuôi mẹ già, chăm con,…

“Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ.”

  • Ta liên tưởng đến những anh hùng như Hai Bà Trưng, Bà Triệu hay chị Tịch, Nguyễn Thị Minh Khai,… Những người phụ nữ sẵn sàng xả thân vì Đất Nước, xóa tan đi những định kiến về thân phận người phụ nữ. Họ đã vùng lên, và cứ thế, họ làm chủ chính mình với lí tưởng sống cao đẹp.
  • Văn học cũng đã nhiều lần ghi dấu những người con gái bất khuất, kiên cường ấy. Đó là hình ảnh chị Chiến trong “Những đứa con trong gia đình”, hình ảnh những cô gái như những ngôi sao lấp lánh trên nền trời phủ đầy mưa bom bão đạn trong “Những ngôi sao xa xôi” …
  • Chiến tranh đã qua đi nhưng những vết thương vẫn in hằn sâu trong tâm trí con người kiên trung, bất khuất với ngọn lửa luôn thường trực:

“Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”

(Nguyễn Đình Thi)

“Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

  • “Họ” là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều và không mang tính chất xác định. Câu thơ đặt “họ” trước hai bình diện là “sống” và “chết” nhưng điều kỳ lạ là câu thơ không hề mang cảm giác đối lập mà gợi ra sự tồn tại và tiếp nối, trôi chảy miên man của dòng thời gian. Đem đến cảm giác này trước hết là do sự nhịp nhàng, êm ả và bình lặng khi các nhịp thơ 2//3 – 3/2 nối tiếp luân chuyển, sau đó là do tính chất phiếm chỉ của đại từ “họ”.
  • Mỗi người dân Việt với quỹ thời gian hữu hạn của đời mình luôn đóng góp dù là nhỏ bé để dựng nước và giữ nước.

⇒ Họ thuần phác, đơn sơ, cần cù làm lụng sau lũy tre làng, gắn bó thương yêu với ruộng đồng, gò bãi. Họ “tiễn người con trai ra trận” rồi vò võ cô đơn hết tuổi xuân để sông núi “Không hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ” (Chế Lan Viên). Họ có thể là những người nông dân nghĩa sĩ “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh” (Nguyễn Đình Chiểu). Họ cũng có thể là những người “ra đi đầu không ngoảnh lại”… Tất cả đều vô danh, bình dị, khiêm nhường, nhưng chính “họ”, những người đã làm nên Đất Nước muôn đời.

2.3 Phương diện văn hóa

a. Sáng tạo, bảo vệ và duy trì

- Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:

“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái.”

⇒ Cặp động từ “giữ” – “truyền”, “chuyền” đã khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước, đó là “gánh vác phần người đi trước để lại” để rồi giữ gìn, duy trì, “dặn dò con cháu” tiếp nối.

- Đất Nước ta nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước.

  • Từ thuở đầu sơ khai, những người con của mẹ Âu Cơ đã tìm ra cây lúa, “một nắng hai sương” chăm chút, nâng niu để rồi “truyền cho ta hạt lúa ta trồng”.
  • Đó cũng chính là những hạt ngọc ngà, chắt chiu tinh hoa của trời đất, kết quả của mồ hôi, công sức “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
  • Lúa cũng chính là hình ảnh của niềm vui, của cuộc sống ấm no khi “Mồ hôi mà đổ xuống đồng – Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương.”

- Nhân dân còn “chuyền lửa qua mỗi nhà”.

  • Lửa là hình ảnh của một quá khứ xa xăm khi còn người bắt đầu tìm đến ánh sáng văn minh, khi tìm ra lửa cũng là khi họ thực sự tách ra khỏi thế giới nguyên thủy. Ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại.
  • Nhắc tới lửa là nhắc đến cuộc sống ấm êm, sum vầy: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm – Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.” (Bằng Việt).
  • Nhưng lửa cũng gợi nhắc đến những cuộc chiến tranh đẫm máu mà nó chính là biểu tượng của lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí bất khuất, kiên cường.
  • “Chuyền lửa qua mỗi nhà” vừa là hình ảnh cụ thể của tình nghĩa làng xóm, là trao gửi sự sống ấm áp “từ hòn than qua con cúi”, là truyền lại sự trường tồn qua “bốn nghìn năm Đất Nước.”

- Nhân dân đã “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”.

  • Tiếng nói là của cải tinh thần vô giá, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của một cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể góp phần làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc.
  • Tiếng nói ấy trường tồn và phát triển cùng Đất Nước bất chấp hàng ngàn năm Bắc thuộc và những năm tháng chiến tranh, bất chấp cả những âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược. Tiếng Việt còn, người Việt còn,…

- Nhân Dân còn trân trọng, giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của từng vùng miền.

  • Hành trang họ mang theo trong những “chuyến di dân” không chỉ là đồ đạc, lương thực. Bên cạnh những giá trị vật chất còn là những giá trị tinh thần thiêng liêng, quý giá: “tên xã, tên làng”.
  • Nghệ thuật ẩn dụ qua động từ “gánh” khiến những khái niệm trừu tượng như “tên xã, tên làng” bỗng trở nên cụ thể và trĩu nặng tình yêu thương, nỗi nhớ.
  • Họ mang theo để đặt cho những vùng đất mới, vừa làm dịu đi niềm thương, nỗi nhớ, vừa để khắc sâu nỗi nhớ vào những thế hệ sau về cội nguồn quê cha, đất Tổ.

- Họ còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp.

  • Cụm động từ “đắp đập”, “be bờ” gợi sự vun vén cho đầy đặn hơn. Sự khác nhau giữa hai cụm động từ đầu và cuối câu thơ cả về thời gian (đời trước – đời sau) và tính chất công việc (chuẩn bị - hưởng thụ) đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước.
  • Có thể họ không được hưởng thành quả lao động của mình, nhưng họ vẫn bình tâm, thanh thản vì con cháu được hưởng phúc, được ấm no từ sự chuẩn bị chu đáo, trìu mến của mình.

b. Chiến đấu, hi sinh cho Đất Nước:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại.”

- Cấu trúc “có … thì” điệp lại cùng động từ mạnh “chống”, “vùng”, “đánh” khiến giọng thơ rắn rỏi, đanh thép, cho thấy tinh thần tự nguyện cao độ của Nhân Dân trong sự nghiệp giữ nước.

- Họ đã không ngại ngần, toan tính, quyết “bảo tồn sông núi, thà chết chớ lui”. Đó là những giá trị thiêng liêng, thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của biết bao thế hệ mà Nhân Dân không cho phép bất cứ kẻ thù nào xâm phạm, hủy hoại.

- Mạch cảm xúc suy ngẫm của đoạn thơ dồn tụ dần rồi bật lên tư tưởng cốt lõi xuyên suốt toàn bài thơ:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.”

  • Có thể thấy, suốt từ đầu đoạn trích, hai từ “Đất Nước”, “Nhân Dân” luôn được Nguyễn Khoa Điềm viết hoa tu từ, điều đó thể hiện sự trang trọng, yêu thương mãnh liệt của tác giả.
  • Hai từ “Đất Nước”, “Nhân Dân” đến đây trở nên gắn chặt, không tách rời như khẳng định chân lý không bao giờ sai lệch: Đất Nước tất yếu thuộc về Nhân Dân.
  • “Ca dao thần thoại” có thể coi là ẩn dụ cho văn hóa dân gian, là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ, là nơi lưu giữ cuộc sống của Nhân Dân, được Nhân Dân phản ánh một cách chân thực, sinh động trong ca dao, cổ tích, văn hóa dân gian.

c. Những bài học đạo lí

- Nhân Dân còn đem đến những bài học đạo lý, dạy chúng ta biết yêu thương, biết trân trọng công sức, nghĩa tình, biết căm ghét cái xấu, cái ác:

“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”

⇒ Câu thơ gợi tình cảm yêu thương mãnh liệt, đắm say, thủy chung xuất phát từ ý câu ca dao: “Yêu em từ thuở trong nôi – Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru.”

“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

⇒ Câu thơ nhấn mạnh tình nghĩa thủy chung, trọng nghĩa tình, lấy ý từ câu ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông – Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.” Đó là truyền thống đạo lí tốt đẹp mà chúng ta cần phải gìn giữ nhất là trong thời đại hiện nay – khi vật chất dần lấn át đi những giá trị tốt đẹp khác.

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không đợi dài lâu.”

⇒ Lấy ý từ câu ca dao “Thù này ắt hẳn còn lâu – Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què”, hai câu thơ làm nổi bật tinh thần yêu nước, căm thù giặc của Nhân Dân ta. Một lần nữa hình ảnh cây tre được lặp lại tô đậm sự cứng cỏi, kiên định của đồng bào ta.

- Đoạn trích kết lại bằng lời ca về Đất Nước:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát chèo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”

⇒ Đó là tiếng hát thể hiện tình yêu với cuộc sống, lao động, tình yêu với quê hương, đất nước, thể hiện tinh thần lạc quan tươi trẻ của con người “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”…

⇒ Qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, người đọc cảm nhận rõ ràng tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước của Nhân Dân, Nhân Dân làm nên Đất Nước. Nhân Dân không chỉ lao động, dựng xây, không chỉ chiến đấu, giữ gìn, bảo vệ, chính nhân dân với tình yêu và những khát vọng mãnh liệt đã đem đến vẻ đẹp lãng mạn say lòng người: “trăm dáng sông xuôi”

III. ĐÁNH GIÁ

1. Nội dung

Đoạn trích là sự cắt nghĩa, lí giải mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, làm sáng tỏ quan niệm “Đất Nước của Nhân Dân”, qua đó thể hiện sự tự hào, tự tôn và tình yêu mãnh liệt của tác giả đối với quên hương, đất nước.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, phóng khoáng

- Đậm đà tính dân tộc và khuynh hướng sử thi

- Lối chiết tự → Khái niệm “Đất Nước” trở nên gần gũi, thân thuộc.

- Kết cấu trùng lặp, biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ

- Giọng thơ trữ tình, sâu lắng

- Vận dụng vốn kiến thức dân gian nhuần nhuyễn.

D. Gợi ý kết bài

Mẫu số 1

Đọc những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta hiểu hơn, yêu hơn đất nước mình. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình dịu dàng, như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước, Nhân Dân. Trong lòng mỗi chúng ta ắt hẳn đều bâng khuâng, xúc động khi nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương:

“Ôi Việt Nam! Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời

Nay mới được ôm người trọn vẹn người ơi

Hùng vĩ thay, toàn thân Đất Nước.”

Mẫu số 2

Đề tài viết về đất nước luôn là niềm cảm hứng lớn trong văn học, nhất là đối với nền văn học của một dân tộc mà tình yêu nước luôn bị đem ra thử thách. Đạt tới thành công nở rộ khi viết về đề tài này, Nguyễn Khoa Điềm đã trữ tình hóa vấn đề mang tính chất chính luận. Những vần thơ trữ tình rất đẹp về Đất Nước đã vượt qua sức mạnh của thời gian, chạm đến trái tim người đọc của hàng triệu người dân Việt Nam để rồi khơi dậy ý thức, trách nhiệm, tình yêu cho mỗi người trong khát vọng đưa Đất Nước tới “những tháng ngày mơ mộng”.

Mẫu số 3

Trích đoạn “Đất Nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng" là sự lý giải hoàn hảo cho những thắc mắc của đọc giả về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?” Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Đất Nước không phải khái niệm trừu tượng và xa xôi, Đất Nước chính là nơi ta đang sống, là mọi thứ xung quanh ta, là con đường chúng ta đi, là hàng cây xanh ngát bên kia đường, là dòng sông uốn khúc quanh chân đồi,... 

“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hả mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?”

E. Tư liệu liên hệ, mở rộng

1. “Điều may mắn với tôi là được sống trong những năm tháng hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu mình và hiểu người hơn.” (Nguyễn Khoa Điềm)

2. “Đất Nước với nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của bản thân.” (Nguyễn Khoa Điềm)

3. “Bây giờ thì tôi chỉ còn chường mặt trong thơ. Thơ thì phải cứ thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối” (Nguyễn Khoa Điềm)

4. “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ” (Nguyễn Xuân Nam)

5. “Vì khi làm nông nghiệp, số phận nhân dân đã gắn chặt với số phận dòng sông. Vậy thì văn hoá ắt phải mang gương mặt dòng sông”. (Nguyễn Khoa Điềm)

6. “… Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ. ..”. (Trần Đình Sử - Đọc văn học văn)

7. “Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất.”

(Trần Vàng Sao)

8. “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể tự do hay thể truyền thống bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ.” (Trích “Tác giả nói về tác phẩm” – Nguyễn Quang Thiều)

9. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời. Hoàng Cầm đã từng nhắc đến nét đặc trưng ấy trong “Bên kia sông Đuống”:

 “Những cô hàng xén răng đen

 Cười như mùa thu tỏa nắng.”

 

10. Hình ảnh cây tre: “Nòi tre đâu chịu mọc cong/Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.”

Cây tre đi vào thơ ca như một huyền thoại đồng hành và bảo vệ Đất Nước: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người…”

(Tre Việt Nam – Thép Mới)

Mỗi cành cây, ngọn cỏ, mỗi tấc đất, bờ tre dường như thấm đẫm niềm căm thù:

“Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn.”

(Nguyễn Đình Thi)

11. Trong thơ Giang Nam từng có câu:

“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.”

12.  “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.”

(Giang Nam)

13. “Là người tôi sẽ chết cho quê hương.” (Trương Quốc Khánh)

14. “Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ chồng

Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi nhà, ngọn núi con sông.”

(Chế Lan Viên)

15. “Nói những điều lớn lao một cách nhỏ nhẹ, nói về đất nước một cách dịu dàng, ngay cả những cuộc hò hẹn lứa đôi trong thơ ông những ngày chiến tranh ấy cũng mang tầm vóc của một dân tộc...” (Thúy Nga)

16. “Anh không bắt đầu thơ mình từ sách vở, từ phòng văn, mà từ hiện thực cuộc chiến đấu của nhân dân, đất nước... Thơ anh vừa có cái tươi tắn của một tâm hồn trẻ, vừa có cái hào hùng vang dội, cái dịu ngọt của đất Huế, người Huế” (Mai Quốc Liên)

17. “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao”...

(Xuân Diệu)

18. Trên đất nước nghìn năm những nông dân lại tập cấy cày

Nhà bác học phải nghĩ suy từ ba sào chua mặn

Năm tấn thóc để làm thép gang mặt trận

Cũng là bài ca theo suốt những đoàn quân

(Thời đại Hồ Chí Minh - Nguyễn Khoa Điềm)

  • 31 lượt xem
Sắp xếp theo