“Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông …”
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn.”
Có lẽ vì vậy mà từ lúc nào không hay, mảnh đất lạ Tây Bắc đã trở thành một nơi để nhớ, để thương yêu sâu sắc trong tâm hồn người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng. Nỗi nhớ ấy đã được thể hiện khéo léo và chân thành qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ như con sóng của nỗi nhớ đổ về ào ạt, mãnh liệt với biết bao kí ức của một thời tuổi trẻ cống hiến hết mình, với bao ấn tượng một thời khắc cốt ghi tâm.
Những cuộc chiến tranh phủ đầy bom đạn rồi cũng qua đi, những hạt bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh những anh hùng vô danh đã ngã xuống vì đất nước. Nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa vĩnh viễn vào trái tim mỗi người về một bài ca không bao giờ quên một thời xương máu hào hùng, bi tráng. Và Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ là dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính anh dũng, kiên cường, sáng ngời vẻ đẹp của lí tưởng.
“Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
Khi Tổ Quốc cần họ biết sống xa nhau”
(Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ)
Chiến tranh đã qua đi nhưng những dấu vết về một thời máu lửa, những hoài niệm về tháng ngày “đất nước tôi chẳng phút bình yên” vẫn mãi mãi sâu đậm. Đó là những tháng ngày mà con người ta nhận ra sứ mệnh của mình là phải chiến đấu, phải đi theo tiếng gọi của đất nước thân thương. Những người con anh dũng ấy đã đi vào thơ ca như những bức tượng đài bất tử: (Chính Hữu), Bài ca xuân 68 (Tố Hữu), Mưa trên đảo Sinh Tồn (Trần Đăng Khoa),... Trong số đó không thể không kể đến bài thơ Tây Tiến thông qua lăng kính vừa lãng mạn vừa đậm chất hiện thực của người thi sĩ xứ Đoài mây trắng Quang Dũng. Bài thơ như cơn sóng đổ về, ảo ạt, mãnh liệt trong tâm hồn người nghệ sĩ với bao nhiêu kí ức của một thời tuổi trẻ cống hiến, với bao ấn tượng sâu đậm khắc cốt ghi tâm gắn với mạnh đất lạ Tây Bắc.
1. Tác giả: Quang Dũng (1921 – 1988)
- Quê quán: Đan Phượng, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội)
→ Vùng đất giàu truyền thống thi ca.
- Là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…
- Con người: khiêm tốn, sống đạm bạc, không thích khoa trương.
- Phong cách nghệ thuật:
+ Hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và hào hoa.
+ Tha thiết, nặng lòng với quê hương, xứ sở, đặc biệt là với người lính Tây Tiến.
→ Là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
→ Tác phẩm của Quang Dũng được đánh giá như một sự khác biệt hoàn toàn trong phong trào thơ ca những năm 1932 – 1945.
2. Tác phẩm: Tây Tiến
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947
+ Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch ở thượng Lào cũng như miền Tây Bắc Bộ.
+ Địa bàn hoạt động: khá rộng, từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa vòng về phía đông Thanh Hóa.
+ Lực lượng: Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội. Có chàng trai đang ngồi trên ghế nhà trường đành phải “xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao”. Trong lồng ngực của những chàng trai hai mươi ấy là trái tim sục sôi nhiệt huyết, lý tưởng.
+ Hoàn cảnh chiến đấu: Họ phải chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy chiến sĩ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng.
+ Đoàn quân Tây Tiến sau thời gian hoạt động ở Lào trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52.
- Quang Dũng là đại đội trưởng của đơn vị Tây Tiến năm 1947. Cuối 1948 chuyển sang đơn vị khác.
→ Xa đơn vị, nhớ đơn vị tác giả sáng tác "Tây Tiến" tại Phù Lưu Chanh. Bài thơ là hồi ức về chiến trường, ban đầu có nhan đề "Nhớ Tây Tiến" khi in lại lấy tên là “Tây Tiến”.
→ Nhà phê bình Vũ Nho từng nhận xét: “Tây Tiến. Đành rằng cả bài thơ là một nỗi nhớ lớn về Tây Tiến. Nhưng theo tôi, bỏ chữ “nhớ” đi, nhan đề gọn hơn. Mặt khác, không chỉ có nỗi nhớ, mà ở đấy còn có sự ngợi ca, sự tôn vinh những chiến sĩ Tây Tiến. Có thêm “nhớ” hóa ra lại thu hẹp mạch cảm xúc của bài thơ.”
1. Nỗi nhớ thiên nhiên và chặng đường hành quân gian khổ, khốc liệt
1.1. Hai câu thơ đầu
- Đánh giá chung: Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người nghệ sĩ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! |
- “Sông Mã”: Đối tượng đầu tiên của nỗi nhớ.
+ Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt Lào (thuộc các tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa);
+ Dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, chảy giữa núi rừng hùng vĩ,.. Đặc biệt, hai bên bờ sông còn “rải rác” mồ chiến sĩ Tây Tiến.
+ Sông Mã là con sông của miền đất đong đầy kỉ niệm, là dòng chảy từ quá khứ dội về. Sông Mã đã theo dấu từng bước chân, từng trận chiến đấu khốc liệt, từng cuộc vui liên hoan với binh đoàn.
→ Sông Mã như một chứng nhân lịch sử sống động, người bạn đồng hành khăng khít với người lính Tây Tiến.
→ Liên hệ: Sông Mã cũng đi vào thơ ca với những kỉ niệm về thời chiến đấu hào hùng:
“Dòng Sông Mã một thời xưa Tây Tiến
Ông cha ta đã cống hiến xuân thì
Giữ nước nhà đánh đuổi giặc Pháp đi
Mỹ gục ngã trong sầu bi đau đớn…”
(Đặng Minh Mai)
- “xa rồi”: Ẩn chứa sự luyến tiếc khi sông Mã, rừng núi cũng như những hình ảnh thân thuộc thời chiến đã xa dần cả về không gian, thời gian. Tất cả chỉ còn là những hồi ức, hoài niệm.
- “Tây tiến ơi!”: Tựa như lời gọi tri âm, tri kỷ.
+ Câu cảm vang lên như một tiếng lòng da diết gắn liền với bao kỉ niệm thân thương cùng đoàn quân.
+ Vần “ơi” ngân nga, khiến nỗi nhớ dường như kéo dài miên man, vô tận.
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” |
- “ Rừng núi”: Là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu; in đậm những nỗi khổ cũng như biết bao niềm vui, nỗi buồn của những người chiến sĩ.
→ Hơn ai hết, tác giả (là người trong cuộc), nhớ về rừng núi cũng chính là nhớ về những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải.
→ Liên hệ: “Rừng núi” sát cánh cùng quân dân chiến đấu trong thơ Tố Hữu:
“Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
- Điệp từ “nhớ” kết hợp từ láy “chơi vơi”
+ Điệp từ “nhớ” lặp lại 2 lần trong 1 câu thơ: khiến cho nỗi nhớ như càng trải rộng thêm ra, trùm phủ khắp không gian núi rừng miền Tây Bắc của Tổ quốc.
+ “Chơi vơi” là từ chỉ tư thế không biết bấu víu vào đâu giữa không gian rộng lớn. Quang Dũng đã góp vào thơ ca Việt một kiểu nhớ mới: nhớ chơi vơi – một nỗi nhớ không hình, không lượng nhưng lại mênh mang, đầy ắp, vô tận. Nó không chỉ đến từ một kỉ vật, một thoáng nhắc nhở, một cuộc gặp gỡ mà luôn thường trực trong trái tim người chiến sĩ – thi sĩ Quang Dũng.
+ Hai âm “ơi” kéo dài tạo nên nhạc tính cho cả câu thơ, dường như Quang Dũng đã đánh lên một hồi chuông thương nhớ vượt tới tận miền Tây Bắc xa xôi rồi dội lại, đi thẳng vào đáy sâu hồn người, ngân nga.
→ Liên hệ:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải,
Nhớ chăn bạn nằm”
“ Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
(Đặng Trần Côn)
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.”
(Nhị hồ – Xuân Diệu)
⇒ Đánh giá: Hai câu thơ đầu với cách diễn đạt khéo léo, gợi hình gợi cảm như bản lề mở ra mạch nguồn cảm xúc của bài thơ.
1.2. Mười câu thơ tiếp
a. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, khốc liệt
- Từ con sông Mã, những hình ảnh quá khứ được cụ thể hóa, đó là nhớ về nơi rừng núi ngút ngàn, chốn hoang vu heo hút của đại ngàn Tây Bắc. Và hàng loạt địa danh được khơi mở:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
- Các địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch: Gợi ra miền rừng núi hùng vĩ, những bản làng heo hút hoang sơ.
⇒ Những địa danh được nhà thơ nhắc đến không phải là những địa danh vô nghĩa trên bản đồ mà đoàn quân Tây Tiến một thời đã đi qua mà nó đã tái hiện lại một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc với biết bao khó khăn, gian khổ: “Những tên làng, tên núi, tên sông/ Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc”
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.” |
- Sài Khao là tên một bản thuộc vùng núi Tây Bắc có độ cao 1500m. Bản Sài Khao gần như cô lập với thế giới bên ngoài bởi không có điện lưới, không có đường xe đi, chỉ có những con đường nhỏ nằm cắt ngang lưng chừng đèo, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực thẳm.
- Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ “lấp” - một động từ có sức gợi tả màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc, che kín cả một đoàn quân, bao phủ cả núi rừng khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm vất vả, gian lao.
→ Hình ảnh “sương lấp” tô đậm thêm cái khắc nghiệt của Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo.
→ Liên hệ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ?”
“Anh nằm sương trắng mười năm
Người lính giữ đầu tiên”
Hay:
“Mũi súng kề bên nhành cúc dại
Sương rung rinh…”
- “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần của họ không hề mỏi mệt bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ Quốc đã làm cho những người con yêu nước nơi Hà thành trở nên kiên cường, bất khuất hơn.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” |
- Câu thơ trực tiếp miêu tả độ cao của dốc núi trập trùng, dốc núi như thách thức ý chí con người.
+ Ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở hai vế câu: thể hiện sự trùng điệp, chồng chất như nối vô tận của con dốc.
+ Từ láy “khúc khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay dưới chân chiến sĩ.
+ Từ láy “thăm thẳm” lại gợi độ cao hun hút, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân cheo leo, ngút ngàn.
→ Liên hệ:
“Thục đạo nan! Thục đạo nan!
Nan ư thướng thiên thanh.”
(Đường lên xứ Thục khó thay,
Khó giống như lên trời xanh)
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời” |
- Con dốc được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng và độ cao chót vót.
+ Từ láy “heo hút” vừa gợi cao, vừa gợi xa, lại vừa gợi vắng được đảo lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi Tây Bắc.
+ Hình ảnh “súng ngửi trời”: Đỉnh núi mù sương cao vút, mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên hình ảnh giàu chất thơ, mang vẻ đẹp của cảm hứng lãng mạn, đầy thi vị.
→ Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới: “Khó khăn nào cũng vượt qua / Kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
→ Liên hệ: Tư thế hiên ngang của người lính cũng đã được nhà thơ Tố Hữu ngợi ca:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(Lên Tây Bắc)
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” |
- Câu thơ như một đường thẳng bất chợt bị bẻ gấp lại, diễn tả sinh động vùng núi cheo leo, hiểm trở.
- Điệp từ “ngàn thước”: mở ra một không gian nhìn từ dưới lên cũng như nhìn từ trên xuống đều thật hùng vĩ.
→ Hình tượng thơ trở nên cân xứng hài hòa, cảnh tượng hùng vĩ thể hiện ngòi bút đậm chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” |
- Pha Luông là tên một đỉnh núi cao nhất Thanh Hóa (1507m so với mực nước biển). Đỉnh Pha Luông thường hiện ra mở ảo trong sương núi.
- Câu thơ gợi lên hình ảnh những ngày mưa tầm tã và rét mướt, xóa nhòa đi đường rừng, nét núi trên chặng đường hành quân của những người lính Tây Tiến.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” |
- Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp, beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu. Với núi rừng Tây Bắc mỗi buổi chiều tà lại nghe thấy tiếng thác gầm thét đổ từ trên cao xuống và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm.
→ Đó là nơi rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí.
+ “Chiều chiều”, “đêm đêm” chỉ thời gian tuần hoàn, gợi sự hiểm nguy luôn luôn rình rập ngày qua ngày.
+ Những âm thanh: “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.
→ Quang Dũng đã lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây Bắc hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời...” |
- Quang Dũng cũng không hề né tránh khi nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
+ “Dãi dầu” là để chỉ sự chịu đựng, trải qua nhiều mưa nắng, vất vả, gian truân,… Hai tiếng “dãi dầu” ở câu thơ này đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu gian khó, hiểm nguy dường như đều phủ lên đầu người lính.
+ “Không bước nữa” là kiệt sức. “Gục lên súng mũ” là ngã xuống. “Bỏ quên đời” là hi sinh, mất mát.
+ “Bỏ quên đời” vì các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vì các anh lên đường và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về).
→ Hình ảnh ngã xuống, gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
→ Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý tưởng: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
→ Liên hệ:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.”
⇒ Đánh giá: Bằng ngòi bút tinh tế, chân thực, biện pháp liệt kê, thủ pháp đối lập,… nhà thơ đã khắc họa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở như một thước phim về lịch sử quay chậm trước mắt người đọc. Cái hiểm trở hùng vĩ ấy càng tô đậm hơn hào khí của những người lính trẻ hết mình vì sự nghiệp cứu nước không ngại gian nguy, không ngại hy sinh tuổi trẻ, thậm chí là cả cuộc đời.
b. Thiên nhiên trữ tình nên thơ, nên mộng:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi” |
- Chữ “hoa” được các nhà phê bình nhận xét: đã đạt tới sự thăng hoa trong cảm xúc Quang Dũng. Có hai cách hiểu:
+ Nhìn từ xa đoàn quân Tây Tiến hành quân về Mường Lát mang theo những ngọn đuốc giống như một dòng sông hoa lung linh, ẩn hiện trong đêm sương. Cách hiểu này cũng phù hợp với nỗi nhớ mênh mang, chơi vơi của nhà thơ ở những dòng thơ đầu.
+ Đó là hương hoa đêm của núi rừng đưa hương ngào ngạt, hay là hình ảnh những ngọn đuốc hoa trên tay người lính cầm trong cuộc hành quân giữa đêm dài? Có lẽ hiểu theo nghĩa nào cũng đúng, hình ảnh nào cũng rất hay, rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên trong một không gian mờ ảo, phiêu bồng “đêm hơi”.
→ Câu thơ đã xóa tan đi sự mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến để đoàn quân bước tiếp, tiếp tục vượt qua những chặng đường gian khổ.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” |
- “Nhà ai” là một ngôi nhà không xác định, nhạt nhòa trong màn mưa.
- “Mưa xa khơi” là những cơn mưa bất chợt làm xóa đi đường rừng nét núi để chỉ còn lại biển và mây trời mênh mông bát ngát.
→ Câu thơ rất gợi cảm và tài hoa, được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan, yêu đời.
→ Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và cả cuộc đời mình để bảo vệ và giữ gìn.
1.3. Hai câu thơ cuối
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” |
- “Nhớ ôi”: thể hiện tình cảm dạt dào, tha thiết, nỗi nhớ vẹn nguyên mà người chiến sĩ dành cho Tây Bắc, cho Mai Châu, cho “em”.
→ Cả câu thơ đậm đà tình cảm quân dân, hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi”.
- Hai tiếng “mùa em”: là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.
+ “Mùa em” là khi người lính Tây Tiến dừng chân nơi đồng lúa chín , đón nhận những bát xôi đậm tình quân dân từ những cô gái Mai Châu; “mùa em” còn là hình ảnh những cô gái bản làng xinh đẹp, đảm đang, cùng nấu những bữa cơm, vắt xôi đậm nghĩa tình dành cho người lính.
+ Trời đất có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông còn với những người lính Tây Tiến, họ có cho riêng mình “mùa em” – “mùa” mà mỗi khi nhớ về, họ không khỏi bâng khuâng, xao xuyến bởi hình ảnh, tình cảm của những cô gái Mai Châu.
→ Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao vực sâu, giữa những tiếng chân thú dữ rình rập đầy đe dọa, phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp ấm áp, mỏng manh, vương vấn đã đem đến cho các anh cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong chiến tranh.
→ Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân của người chiến sĩ trong bài thơ “Tiếng gà trưa” – Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong cuộc đời người lính.
→ Liên hệ:
“Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.”
Hay:
“Anh nắm tay em vào cuối mùa chiến dịch
Bát xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”.
⇒ Đánh giá: Mười bốn câu thơ trên đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên hùng tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm tự hào, kiêu hãnh. Đoạn thơ để lại dấu ấn vô cùng đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công nổi bật là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng hiện thực và lãng mạn Cách mạng của Quang Dũng.
2. Những kỉ niệm ấm tình quân dân
2.1. Kỉ niệm đêm hội doanh trại
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa" |
- “Doanh trại”: Được biết là nơi đóng quân của binh đoàn Tây Tiến; Đây cũng là nơi đang diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân.
→ Dường như đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và như đã góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến.
- “Bừng”: Có thể nói là nhãn tự của câu thơ, như một “nét vẽ có thần”
+ “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, và cũng như là của lửa trại sáng bừng lên (ánh sáng đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tăm tối, lạnh lẽo của núi rừng)
+ Cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng, rộn rã.
→ Không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng mà còn thể hiện niềm vui rạo rực trong lòng người.
- “Đuốc hoa”: hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn.
→ Gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui lan tỏa, đó còn chính là niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ.
→ Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng lại vừa ấm áp tình quân dân gắn bó, keo sơn.
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ" |
- “Kìa”: dùng để chỉ một nơi ở xa vị trí người nói, nhưng có thể nhìn thấy cụ thể, rõ ràng, nêu lên để gợi sự chú ý của người đối thoại. Ở đây, từ “kìa” thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các nàng đến dự hội đuốc hoa trong bộ "xiêm áo" xinh đẹp.
→ Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ
→Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện của những cô gái vùng núi Tây Bắc trong xiêm áo dân tộc rực rỡ đã đem đến cho những người lính trẻ bao niềm vui rạo rực và tình quân dân thắm thiết, họ đã trở thành đối tượng trung tâm của đêm hội, là nơi ngưng đọng lại ánh mắt và tâm hồn của biết bao chàng trai Tây Tiến.
- Giọng thơ êm đềm như ngưng đọng lại ở từ “em” nghe thật ân cần mà chứa chan tình cảm.
→ Câu thơ như sự hóa thân của một tài năng, có sự hiện hình của chất họa, có giai điệu du dương, ngọt ngào của chất nhạc, có vẻ đẹp e ấp, tình tứ của con người, có cái kín đáo, e lệ của người thiếu nữ miền sơn cước.
"Nhạc lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" |
- “Khèn lên man điệu”: Khèn là một loại nhạc cụ quen thuộc của dân tộc vùng núi phía bắc Việt Nam. Đêm hội ấy có tiếng khèn “man điệu” của núi rừng - một điệu nhạc “lạ” nhưng cũng tạo được những nét đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Dường như để hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông thật biết tạo nên quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ.
- “Viên Chăn”: Là thủ đô của nước bạn Lào có biên giới chung với cùng Tây Bắc Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam và Lào đã gắn bó chặt chẽ với nhau để chống lại kẻ thù chung. Nói đến Viêng Chăn là nói đến mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa 2 nước Việt - Lào, một mối quan hệ gắn bó bền chặt đến mai sau.
- “Nhạc về”: Có lẽ là người lính đang hướng về một ngày mai khải hoàn, đoàn quân sẽ tiến về thành phố.
⇒ Có thể khẳng định chính trong không khí của âm nhạc, cũng như các vũ điệu, giai điệu của miền đất lạ ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó còn chính là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ xa xôi này. Mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều như tan biến. Và để thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”.
→ Liên hệ:
“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngĩ
Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về”.
(Bộ đội về làng – Hoàng Trung Thông)
2.2. Buổi chiều sương chia ly
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy" |
- Sương: ở đây ko phải là sương lấp, cũng không phải là sương che hay sương phủ mà là “chiều sương ấy”. Nó dường như đã gợi màu sắc bản làng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác.
→ Đại từ ”ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương như đã hiện lên trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng.
"Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc" |
- Điệp ngữ “có thấy – có nhớ”: như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, như cũng rất cháy bỏng khôn nguôi.
- “hồn lau nẻo bến bờ”:
+ Hoa lau (nét đặc trưng của đất biên giới) có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li ti nên chỉ cần một chút gió rất nhẹ, những bông lau mềm mại, nhẹ nhàng cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng tinh khôi, huyền hoặc của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi… đã khiến rừng lau không vô tri vô giác như có hồn.
+ Cảnh sông nước hoang dại “như một bờ tiền sử”, và dường như chính tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế : “hồn lau” - gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng, phảng phất chút tâm linh rừng núi.
+ Cụm cừ “nẻo bến bờ” có nghĩa như sau nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ chính là: nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau.
→ Liên hệ:
- Giữa cảnh sông nước mênh mang vẫn thấp thoáng đâu đây bóng dáng con người:
+ Hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: “Có nhớ dáng người trên độc mộc”.
+ Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn và rất dài. Dường như dáng người trên độc mộc ở đây là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông.
+ Hiểu theo một cách khác đó chính là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước.
→ Liên hệ:
“Bến vắng chiều xuân hoa gạo rơi
Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi
Đò ngang một chuyến qua mưa bụi
Nhớ mãi người đi… bóng dáng người”
(Quang Dũng)
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
- Chữ “hoa” đã thể hiện cảm nhận tinh tế của nhà thơ về thiên nhiên. Hình ảnh những bông hoa rừng đong đưa như làm duyên trên dòng nước lũ làm khổ thơ đẹp hơn rất nhiều, Ba chữ “hoa đong đưa” gợi một cảm xúc rất tình tứ và duyên dáng.
- Đó chính là cảnh những cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người, như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.
⇒ Có thể nói đoạn thơ trên là đoạn thơ trữ tình mơ mộng nhất bài thơ, thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời cũng rất mực hồn nhiên làm say mê lòng người đọc và sau đó là một khoảng trời riêng dành cho nỗi nhớ.
3. Bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến
3.1. Ngoại hình
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.” |
- "Đoàn binh”: Gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng (mang âm hưởng của những câu thơ cổ). Họ có vóc dáng lẫm liệt, kiên cường, nêu cao khí phách anh hùng.
- “không mọc tóc”: nét vẽ ngoại hình xuất phát từ hoàn cảnh hiện thức khắc nghiệt – người lính phải cạo đầu để chống chấy, rận, giảm bớt những bất tiện trong cuộc sống ở núi rừng; đồng thời là hậu quả của những “cơn ớn lạnh”, “sốt run người” mà bệnh sốt rét rừng gây ra.
- “xanh màu lá": gợi ra nhiều nét nghĩa, có thể là hình ảnh người lính ngụy trang những tán lá xanh trên lưng, trên mũ để che mắt quần thù, hay chính là sự xanh xao của những gương mặt ốm yếu, tiều tụy bởi trải qua những trận sốt rét rừng.
→ Thủ pháp tương phản ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính (thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù) mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. (Ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa.)
→ Liên hệ:
3.2. Tâm hồn, ý chí
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” |
- “Mắt trừng”: Gợi tả nét dữ dội oai phong lẫm liệt; sự cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong chiến trận ác liệt hay những đêm canh gác,..
- “Mộng qua biên giới”: Mộng tiêu diệt quân thù bảo vệ biên cương, lập nên chiến công, nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Đồng thời, gợi một nỗi niềm đau đáu, khôn nguôi; chất chứa bao khắc khoải, mong chờ.
→ Biên giới và Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách.
→ Liên hệ:
“Quân thù kìa ơi! Một bầy man rợ
Bay đừng hòng khuất phục đời ta
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”
(Bài ca chim Chơrao – Thu Bồn)
- “Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy.
+ Đó không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô.
+ Đã một thời, người ta phê phán “thói tiểu tư sản” mà chê bai, nhưng sự xuất hiện của “dáng kiều thơm” làm cho nỗi nhớ trở nên vời vợi hơn, không phải là những cái mộng rơi mộng rớt của trí thức tiểu tư sản mà là nét đẹp trong tâm hồn người lính cụ Hồ.
→ Cũng nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam.
→ Ta cũng bắt gặp trong thơ Nguyễn Đình Thi:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”
→ Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, qua đó cũng thể hiện chất hào hoa, phóng khoáng trong tâm hồn nhà thơ – chiến sĩ Quang Dũng.
→ Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc: những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một “dáng kiều thơm”, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
3.3. Sự hi sinh
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.” |
- Hiện thực là: Đoàn binh Tây Tiến nhiều khi phối hợp tác chiến với quân đội Lào trên cả hai địa bàn Việt Lào. Nhiều chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại nơi biên cương xa xôi.
- “Rải rác” là biểu thị số ít nhưng “rải rác biên cương” thì không còn là ít ỏi nữa. Nhịp thơ như chững lại, khiến người đọc thổn thức, xúc động khi nghĩ đến những người con đã anh dũng ngã xuống vì Tổ Quốc ngày hôm nay.
→ Đó là biểu hiện của đức hi sinh thầm lặng, họ ngã xuống nhưng không mất đi mà hóa thành hồn thiêng sông núi, tồn tại muôn đời với dân tộc,
- “Mồ viễn xứ”: gợi lên cái chết khủng khiếp , đậm chất bi hùng.
- Nhà thơ tiếp tục khắc họa sự hi sinh của người lính – những người con xếp ước mơ vào ba lô rồi ngủ yên trong lòng đất mẹ để hoa độc lập mãi thơm, trái tự do mãi ngọt: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”
→ Giọng thơ vút lên: thể hiện tâm thế, tư thế và ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến. Ở họ luôn có ý chí, quyết tâm mạnh mẽ như vậy, họ cầm vũ khí đứng lên vì chân lý lịch sử:
“Một thân không thể chia đôi
Lửa gươm không thể cắt rời núi sông.”
→ Đó cũng là tâm nguyện, ý chí cao đẹp đã được Thanh Thảo thể hiện trong những câu thơ chân thành, thấm thía xúc động: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc?”
“Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.” |
- Hiện thực: người lính gục ngã trên chiến trường không có lấy một mảnh chiếu che thân, tấm ván để khâm liệm qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bao bọc trong những tấm áo bào sang trọng.
- Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì chẳng có chiếc áo bào nào.
→ Đó là một cách nói giảm, nói tranh gợi sự “sang trọng”, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn.
- Cụm từ “anh về đất”: được sử dụng tinh tế để nói về sự hi sinh ấy. Câu thơ góp phần giảm nhẹ cái bi thương , đồng thời thể hiện niềm trân trọng yêu thương của đất nước, của đồng đội đối với những người đã ngã xuống.
→ Quang Dũng nói về cái chết với những từ ngữ thật giản dị, mộc mạc mà thiêng liêng, giúp bình thường hóa, tự nhiên hóa cái chết theo đúng quan niệm của các chiến sĩ trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Người lính Tây Tiến tự nguyện chiến đấu với một lòng yêu nước nồng nàn, tình thần xả thân vì nghĩa lớn, giống như những tráng sĩ thuở xưa “gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”.
→ Các anh đã hoàn thành nghĩa vụ hiến dâng cho đất nước. Đất mẹ sinh ra các anh, đất mẹ cũng là nơi mở rộng vòng tay đón các anh trở về trong sự yêu thương.Tiễn đưa các anh về đất mẹ không phải là những giọt nước mắt bi ai, não nề mà những giọt nước mắt ấy đã lặn vào trong, đọng thành khối chôn chặt vào đáy lòng người còn sống. Sự trở về ấy đã nhập các anh vào thế giới vĩnh hằng của cha ông, thế giới của “những người không bao giờ khuất – Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất – Những buổi ngày xưa vọng nói về.”
- Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền và dõi theo con đường hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng nỗi đau với con người.
+ Cái bi tráng bi thương bị át hẳn trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã. Nó như tiếng kèn trong “Chiêu hồn liệt sĩ”, như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng.
⇒ Bằng (bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, những từ ngữ gợi hình gợi cảm, biện pháp nói giảm, nói tránh,…) Quang Dũng đã rất thành công khi miêu tả và ngợi ca những người lính Tây Tiến, họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem xương máu ra giữ vững sơn hà. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết khao khát, rất hồn nhiên và lạc quan. Họ sẽ sống mãi trong tâm thức những người dân Việt Nam đúng như Tố Hữu từng viết: “Có cái chết hóa thành bất tử”
→ Liên hệ:
4. Lời thề gắn bó với Tây Tiến
“Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” |
- Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về.
→ Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít.
- Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình.
- “ai” là đại từ phiếm chỉ (chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định.)
→ Nhà thơ dường như cố tình nói như thế, để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nứa
- “Mùa xuân ấy”: là đầu năm 1948, khi đơn vị Quang Dũng phòng ngự ở biên giới Việt – Lào, thì bốn đội vũ trang tuyên truyền mở đường lên Tây Bắc, và ba tháng sau, đại bộ phận đã bị đánh bật trở về. Những người sống sót, có thể trở về đều gầy yếu bệnh tật.
- Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh, giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn: họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại.
→ Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa: “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
→ Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại.
1. Nội dung |
- Bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian khổ , thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng… - Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây Bắc Tổ quốc. |
2. Nghệ thuật |
- Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng - Nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu: + Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú + Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; ( trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo ( nhớ chơi vơi , Mai Châu mùa em…), tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm.. + Giọng điệu: Khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng… ⇒ Được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ thuật. |
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.Với ngòi bút tài hoa, cốt cách hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc họa vào thời gian, thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ anh dũng, quả cảm mà không kém phần hào hoa, mơ mộng. Tây Tiến sẽ mãi là một ánh lửa đẹp đẽ sáng chói bừng lên trong đêm hội của thi ca.
Con người cũng như dân tộc cũng có những thăng trầm, có những năm tháng không thể nào quên: những nỗi đau, gian khổ và cả những hào hùng không thể quên. Và trong những năm tháng ấy chúng ta đã có những bài thơ đi cùng năm tháng, không thể quên, như bài thơ Tây Tiến. Nhà thơ Lam Giang đã có những vần thơ:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy,
Vẫn sống muôn đời với núi sông.”
Bao nhiêu năm tháng đã qua đi nhưng giá trị, vẻ đẹp bài thơ Tây Tiến vẫn luôn tỏa sáng rực rỡ.
Quang Dũng vào “làng” thơ cách mạng với bài Tây Tiến . Như có mối duyên gì ràng buộc, bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Quang Dũng là người ta nhớ đến bài thơ Tây Tiến và ngược lại.Có lẽ bởi từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
1. “Tây Tiến là một sáng tác có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỷ niệm xa nên thơ và gợi cảm…” (GS Hà Minh Đức)
2. “Bây giờ thì áng mây trắng Xứ Đoài Quang Dũng vẫn cứ lãng đãng ngang trời, phủ một bóng mát lớn xuống nền thơ Việt Nam hiện đại”. (Nhà nghiên cứu văn học Văn Giá)
3. “Quang Dũng và những người cùng lứa tuổi với anh đi theo Cách mạng, vào làng thơ cách mạng; dù cơn gió lãng mạn ruổi theo thì cũng là gió thuận, gió mạnh, gió đẩy cánh buồm. Cái lãng mạn ấy – trong phần tốt đẹp của nó – dễ gặp, dễ hòa nhập với lãng mạn cách mạng”. (Nhà thơ Trần Lê Văn)
4. “Khao khát lên đường với hào khí và lòng tự nguyện, không phải người lính không nghĩ đến hi sinh. Nhưng có hành động nào cao quý hơn hành động xả thân cho lý tưởng”. (Nhà nghiên cứu Lê Bảo)
5. “Quang Dũng vào làng thơ cách mạng với bài thơ Tây Tiến. Như có mỗi duyên gì ràng buộc, bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức nói đến Quang Dũng là người ta nhớ đến Tây Tiến và ngược lại”. (Nhà thơ Trần Lê Văn)
6. “Có thể nói Tây Tiến – đó chính là một tượng đài bằng thơ bất tử mà nhà thơ Quang Dũng với tất cả tấm chân tình đã dựng để tưởng niềm những người chiến sĩ vô danh đã hi sinh vì nước”. (Phong Lan)
7. “Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ”. (GS. Trần Đăng Suyền)
8. “Quang Dũng là nghệ sĩ say mê cái đẹp, có trái tim nhạy cảm, biết rung động một cách tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người. Đó là một thi sĩ mang cốt cách lãng tử nhưng lại rất chân thật, giản dị”. (Lê Hoàn Tân)
9. “Nói đến Quang Dũng, người ta nghĩ ngay đến những chiến tướng với tài làm thơ trên yên ngựa. Người ta phải cảm nhận không khí thâm u của núi rừng. Người lính chiến cô độc đi theo tiếng gọi núi sông. Nhưng một mặt khác bàng bạc khắp thơ ông là nỗi nhớ khôn khuây. Người từ giã ra đi nhưng còn trong tâm tư một tình thương đầy ắp”. (Viễn Di)
10. “Đã có lúc người ta cho rằng bài thơ Tây Tiến khống có tác dụng tích cực, vì nó buồn, nó tô đậm cái gian khổ, cái tổn thất. Mà nói đậm đến cái gian khổ cái tổn thất là “làm nhụt nhuệ khí của quân dân ta”. Sự thật, trải qua bao đời, biết bao quân dân ta đã “cảm tử cho tổ quốc quyết sinh” có bao giờ nhụt nhuệ khí đâu?” (Nhà thơ Trần Lê Văn)
11. “Lời tâm nguyện của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu. Bài thơ để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử thơ ca dân tộc” (Phan Huy Dũng)
12. “Đó là sự thật viết bằng máu của người lính.... Bởi vậy, nỗi buồn lan tỏa từ bài thơ mang chiều kích khác thường. Khúc hát tang lễ trở thành tiếng gầm, khúc độc hành của dòng sông hoang dại” (Đặng Anh Đào)
13. “Quang Dũng vẫn là người rất tài hoa trong việc ghi nhận và thổi vào sự sống cho các địa danh. Những tên đất riêng - thường là tên Nôm - là quê ông, là những nơi ông đi qua - Những làng đi qua, thế mà vào thơ ông lại trở thành một lưu luyến, một nhớ nhung đến thế, không chỉ là xứ Đoài mây trắng với Bương Cấn, Sài Sơn, với Phủ Quốc, Ba Vì, Bất Bạt...mà còn là Sài Khao, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu, Châu Mộc” (Lưu Khánh Thơ)
14. “Trong thơ Việt Nam chưa bao giờ các địa danh của mọi vùng miền lại xuất hiện nhiều và phổ biến như ở thời kì này, thậm chí nó dày đặc trong một bài, một câu thơ, vậy mà hầu như không có trường hợp nào gây ra sự phản cảm cho người đọc (...). Có lẽ Quang Dũng và Tố Hữu là hai tác giả tiêu biểu nhất trong việc sử dụng thành công địa danh trong thơ” (Nguyễn Văn Long)
15. “Có người làm thơ lấy cái chân làm gốc, lại có người trọng sự tài hoa. Ở Quang Dũng là sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất, dân dã với tài hoa tinh tế. Nhiều bài thơ anh do vậy mà đạt tới độ chân tài”. (Mai Hương – tạp chí văn học số 3 – 1990)