"Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo…"
Văn học viết về chủ đề miền núi càng ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm viết về chủ đề miền núi đã đem đến cho văn học nước nhà một màu sắc riêng – một màu sắc đậm đà chất dân tộc. Nhiều tác phẩm viết về miền núi đã có những thành công lớn, đã đạt giải thưởng cao về văn học nghệ thuật. Nhớ lại giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955, cả hai tác phẩm viết về đề tài miền núi đã giành được giải thưởng về mảng văn xuôi. Đó là tuyện ngắn "Vợ Chồng A Phủ" nằm trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài đạt giải nhất về truyện và ký. Đó là tiểu thuyết "Đất nước đứng lên" của nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) đã giành giải nhất về tiểu thuyết. Tiếp theo "Đất nước đứng lên" một lần nữa nhà văn Nguyễn Trung Thành lại thành công với một truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh cách mạng, đó là truyện ngắn "Rừng xà nu".
“Một cây ngả cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
Có những “bài ca không bao giờ quên”, cũng có những năm tháng chiến tranh không phai mờ trong ký ức. Theo tiếng gọi của tự do, những người dân đất Việt từ Nam ra Bắc, từ miền xuôi lên miền ngược đã không ngần ngại dấn thân mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Và những con người của miền đất Tây Nguyên kiên trung cũng đã “rũ bùn đứng dậy” để rồi mãi “sáng lòa” trên những trang văn, trang sử thời đại . Tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành chính là minh chứng hùng hồn cho thứ ánh sáng bất diệt ấy
1. Tác giả
- Tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
- Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông gắn bó mật thiết với thiên nhiên và con người Tây Nguyên, vì thế ông hiểu biết sâu sắc những gì thuộc về vùng đất này.
⇒ Tây Nguyên đã trở thành nguồn đề tài phong phú cho những trang viết của ông; và chính ông đã từ trang viết của mình mà tô điểm làm đẹp thêm cuộc sống con người Tây Nguyên.
- Những tác phẩm của ông thường xoay quanh những vấn đề trọng đại của dân tộc, của đất nước, nhân dân, từ đó xây dựng những nhân vật có tính cách anh hùng, tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân với giọng văn hào sảng, trang trọng.
⇒ Tác phẩm của bút danh Nguyên Ngọc mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Truyện ngắn ra đời giữa năm 1965, khi lần đầu tiên quân đội Mỹ đặt chân lên Chu Lai (Quảng Nam) để mở đầu chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và đánh phá ác liệt miền Bắc nước ta.
- Tình thế như dầu sôi lửa bỏng ấy, đòi hỏi phải có những tác phẩm ra đời kịp thời động viên, cổ vũ nhân dân đứng lên kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chính vì thế Nguyễn Trung Thành đã chấp bút viết lên truyện ngắn này.
- Tác phẩm lần đầu in trên tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng” (số 2, 1965), sau đó in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” xuất bản năm 1969.
b. Cảm hứng sáng tác
- Cảm hứng trực tiếp: Khi Mỹ bắt đầu chiến tranh cục bộ, dân tộc ta bước vào cuộc đối đầu một mất một còn với đế quốc Mĩ.
⇒ Cảm hứng lịch sử, cảm hứng sử thi về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Cảm hứng gián tiếp:
+ Cảm hứng về cây xà nu:
⇒ Rừng xà nu là một khối cảm hứng trầm tích, kết tụ từ lâu, âm thầm lẫn khuất, chín dần trong tâm thức của nhà văn và giờ đây được cảm hứng lịch sử trực tiếp xé toạc ra, tuôn chảy rào rạt thành một truyện ngắn hay. Cây xà nu hoàn toàn hợp với không khí tráng ca thời đánh Mỹ, hớp với cảm hứng sáng tạo của nhà văn muốn một bài hịch hiện đại nên đã đi vào truyện thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo giàu ý nghĩa biểu tượng.
+ Cảm hứng về những con người Tây Nguyên anh hùng trong cuộc đời thực, trong cuộc chiến đấu của dân tộc:
⇒ Như vậy, cảm hứng sáng tạo là cảm hứng lịch sử - xã hội, nhưng chiều sâu vẫn là niềm cảm phục và yêu thương con người Tây Nguyên, mảnh đất Tây Nguyên đau thương mà anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam của nhà văn.
c. Tóm tắt truyện
1- Truyện được kể theo một lần về thăm làng Xô Man của Tnú, sau ba năm xa làng đi lực lượng Giải Phóng. Trong đêm Tnu nghỉ lại ở làng, dân làng đã quây quần bên bếp lửa xà nu lớn ở nhà ưng, nghe cụ Mết kể lại câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú và về cuộc nổi dậy, đồng khởi của làng Xô Man. Sau một ngày đêm nghỉ phép, Tnu lại lên đường trở về đơn vị.
2- Như vậy, Rừng xà nu có hai câu chuyện đan cài vào nhau: chuyện về cuộc đời Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Chuyện về Tnú là cốt truyện chính và Tnú cũng là linh hồn của cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man.
3- Truyện tái hiện không khí một thời kỳ lịch sử của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam vào những năm đen tối trước Đồng khởi (1955-1959) qua các đoạn đường của cuộc đời Tnú và làng Xô Man.
d. Xung đột chính của truyện: Nhân dân cách mạng với kẻ thù Mỹ – Ngụy được dồn nén đẩy tới cao trào và bùng nổ ở gần cuối truyện – trường đoạn về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man.
⇒ Cao trào: kẻ thù độc ác tra tấn dã man Mai và đứa con nhỏ của Tnú bằng thanh sắt, rồi đốt mười ngón tay Tnu bằng giẻ tẩm dầu xà nu hòng dập tắt ý chí cầm vũ khí của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man đã phản kháng mãnh liệt. Với giáo, mác, dụ, rựa, dưới sự lãnh đạo của cụ Mết, dân làng đã nổi dậy, trong phút chốc tiêu diệt sạch cả một tiểu đội giặc; bắt đầu cuộc chiến đấu giải phóng buôn làng và giải phóng Tây Nguyên.
e. Cảm hứng tư tưởng chủ đạo: Chính từ xung đột không thể điều hòa này, truyện đã bật lên một kết luận mang ý nghĩa như một chân lí của cách mạng, được cụ Mết phát ngôn: “Nhớ lấy, ghi lấy,… Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu : chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
⇒ Đó cũng là tư tưởng chủ đạo của tác phẩm: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng nhân dân.
1. Hình tượng các nhân vật
Vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên được miêu tả qua các nhân vật cụ thể như cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng. Tất cả nhân vật này đều có vẻ đẹp chung đó là lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc trung thành tuyệt đối với cách mạng, gan góc, có khí phách hiên ngang không khuất phục trước kẻ thù. Tuy nhiên bên cạnh những vẻ đẹp chung mỗi thế hệ người dân Tây Nguyên lại có vẻ đẹp riêng.
1.2. Hình tượng Tnú
1.2.1. Khái quát chung
- Trong tác phẩm rừng xà nu Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, một nhân vật trữ tình có đời sống tư tưởng tình cảm cuộc đời và số phận riêng nhưng đồng thời là nhân vật anh hùng nhân vật sử thi kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng và dân tộc.
⇒ Tnú là “cây xà nu” trưởng thành từ bão tố chiến tranh.
- Nguyễn Trung Thành đã rất sáng tạo khi miêu tả sự xuất hiện của Tnú: Sau ba năm đi lực lượng Tnú trở về làng đêm hôm đó anh ở lại nhà của cụ Mết bên đống lửa xà nu ngoài trời mưa rì rào như gió nhẹ những người dân làng Xô Man ngồi quây quần quanh đống lửa nghe cụ Mết kể về cuộc đời của Tnú và lịch sử đau thương anh dũng của làng Xô Man như vậy sự xuất hiện của Tnú giống như sự xuất hiện của các anh hùng dân tộc Tây Nguyên trong lối kể khan, hát khan của đồng bào các dân tộc thiểu số.
1.2.2. Cuộc đời Tnú lúc còn nhỏ cho đến khi trở thành người chiến sĩ
- Lúc nhỏ cuộc đời của Tnú rất đáng thương: anh là con người của dân làng Xô Man, cha mẹ mất sớm được dân làng cưu mang nuôi dưỡng đùm bọc, đặc biệt cụ Mết coi Tnú như con đẻ của mình. Tnú sớm có cái bụng thương núi thương nước thương yêu nhân dân làng xóm đúng như lời cụ Mết “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Ngay từ khi Tnú còn nhỏ đã được cụ Mết – người gìn giữ và thắp ngọn lửa cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay “cán bộ là Đảng Đảng còn núi nước này còn” vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời Tnú xuất hiện với tư cách người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mĩ cứu nước.
- Trong thời gian Tnú đi lực lượng: không lúc nào anh không nuôi nỗi nhớ thương về làng của anh mà nỗi nhớ day dứt nhất là tiếng chày giã gạo của những người phụ nữ Strá bởi trong âm vang của tiếng chày ấy có hình ảnh của người mẹ, của Mai của Dít và tất cả người phụ Strá những người đã làm nên hạt gạo ngon nhất núi rừng này.
- Khi trở về làng Tnú không quên hình ảnh thân thuộc về ngôi làng của mình:
* Các phẩm chất của Tnú:
- Gan góc, táo bạo, quả cảm: Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù như bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng, anh Xút bị treo cổ trên cây vải đầu làng, Tnú đã cùng Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết người cán bộ kiên trung của Đảng.
⇒ Đây là một công việc đầy gian khổ và nguy hiểm nhưng Mai và Tnú đã làm rất tốt để người dân làng Xô Man mãi tự hào “năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này” chiến công của Tnú đã trở thành chiến công chung của làng Xô Man.
- Phẩm chất chính trị trong sáng, trung thực thẳng thắn như cây xà nu:
+ Tnú quyết tâm học cho được cái chữ của cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết nếu không may anh Quyết bị hi sinh nhưng Tnú học cái chữ rất hay quên “Học đến chữ i dài nó không sao nhớ nổi cái chữ chi tròn tròn mà có dấu móc và chữ chi có cái bụng to to đứng sau chữ đó” quả thực để đưa cái chữ của cách mạng vào cái đầu rắn như đá của Tnú không phải là chuyện dễ dàng. Tnú đã tự phạt mình bằng cách lấy đá đập vào đầu mình cho chảy máu ra.
⇒ Hành động này có phần nóng nảy nông nổi nhưng nó biểu lộ ý chí quyết tâm sắt đá của một con người có ý chí. Vì không học được chữ cho nên tự trừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn đồng thời nó cũng thể hiện tình yêu của Tnú với cách mạng.
+ Mặc dù học chữ thì nhanh quên nhưng làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú lại có cái đầu sáng lạ lùng.
⇒ Như vậy từ nhỏ cho đến khi trở thành người chiến sĩ Tnú đã trải qua bao thử thách khó khăn gian khổ để vững vàng trong cuộc chiến đấu với kẻ thù.
1.2.3. Tnú và bi kịch gia đình
- Sau khi bị giam cầm trong nhà ngục Kon Tum, bằng tinh thần dũng cảm, Tnú đã vượt ngục trở về và trực tiếp lãnh đạo nhân dân đánh giặc và Mai – Người bạn từ thủa thiếu thời đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú.
⇒ Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ ông và thủy chung ấy. Hạnh phúc, gia đình của Tnú đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên.
- Song kẻ thù tàn bạo đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không tiếc thương. Bọn thằng Dục đã tra tấn đánh đập Mai và đứa con chưa đầy tháng của Tnú. Nhưng lúc đó Tnú và làng Xô Man chỉ có tay không.
⇒ Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đặt cái chung, đặt nhiệm vụ lên trên bi kịch cá nhân mình đó là thái độ biến đau thương thành hành động
- Tuy nhiên bi kịch của Tnú chưa dừng lại ở đây Tnú còn bị bọn giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay.
⇒ Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô Man, để đốt cháy hệ thần kinh yêu nước của người cộng sản.
- Nhưng chúng đã nhầm, chúng đã vô hình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, gọn lửa đấu tranh của dân làng Xô Man. Một ngón tay Tnú bốc cháy, hai ngón, ba ngón không có gì đượm bằng nhựa Xà Nu. Mười ngón tay của Tnú nhanh chóng trở thành 10 ngọn đuốc sống nhưng kỳ lạ thay người cộng sản đó không thèm kêu van dù ngọn lửa ấy cháy cả ngực cả bụng, ruột, máu mặn đắng ở đầu lưỡi răng anh đã cắn nát môi anh rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng cụ Mết đã thét lên một tiếng “giết” .
⇒ Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng , làm lay động tâm can con người. Cộng hưởng của tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà ưng tiếng cụ Mết ồ ồ: “chém, chém hết” tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn cả dân làng Xô Man và trong phút chốc họ đã vùng lên giết chết bọn giặc xác bọn chúng nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu, thằng Dục đã phải bỏ mạng dưới ngọn mác của cụ Mết.
⇒ Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống. Chân lý đó đã được cụ Mết truyền dạy cho con cháu “nghe rõ chưa các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” đó là chân lý của cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thẫm máu và nước mắt. Một chân lí nghiệt ngã như tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng nhân dân.
⇒ Vượt qua bi kịch cá nhân Tnú trở thành người cán bộ người chiến sĩ có tính thần kỷ luật cao
- Từ đây, cả dân làng Xô Man vùng dậy cầm lấy giáo mác làm vũ khí chống lại vũ khí tối tân của Mỹ ngụy và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được tiếp nối bằng việc đi lực lượng. Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân tham gia lực lượng quân giải phóng để quét sạch tất cả bọn thằng Dục - kẻ thù không đội trời chung với dân làng Xô Man. Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân Tnú là cán bộ có tinh thần kỷ luật cao.Tuy nhớ quê hương, gia đình nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng một đêm như quy định để hôm sau Tnú lại lên đường. Phẩm chất này đã khiến Tnú trở thành người anh hùng, thành niềm tự hào kiêu hãnh của dân làng Xô Man.
1.2.4. Cuộc đời Tnú gắn liền với hình tượng độc đáo: đôi bàn tay
- Lúc còn nhỏ: đó là bàn tay kiên trì làm nương phát rẫy, rồi lấy đá đập vào đầu mình cho máu chảy ra. Đó là bàn tay cầm phấn viết chữ của anh Quyết dạy cho và đặt lên bụng mình mà nói: “Công sản ở đây này”.
⇒ Đây là đôi bàn tay chí nghĩa bàn tay không biết phản bội bao giờ.
- Đó còn là đôi bàn tay tình nghĩa. Đôi bàn tay ấy từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương. Bàn tay ấy đã xé tấm dề để Mai địu đứa con thơ và dang rộng vòng tay lần cuối đón mẹ con Mai vào lòng trước khi giặc đốt 10 đầu ngón tay Tnú.
- Bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Lòng hận thù ấy biến bàn tay Tnú thành bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn có thể cầm giáo cầm súng để Tnú lên đường rửa hận và cuối cùng cũng chính bàn tay ấy đã siết vào cổ họng tất cả những thằng Dục ác hơn cả dã thú. Tnú đã nói với kẻ thù “Tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày bằng súng tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng 10 ngón tay cụt này thôi tao bóp cổ mày thôi”
- Đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay của lịch sử của số phận trở thành biểu tượng cho sức sống bất khuất sức sống mãnh liệt của Tnú và dân làng Xô Man, sức sống ấy như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương mà vẫn tươi xanh bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời
1.2.5. Bài học từ cuộc đời Tnú
- Thông qua cuộc đời nhân vật Tnú, thông qua câu chuyện kể xúc động và những lời nhắc nhở trang nghiêm, tha thiết của già làng, Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho người đọc một nhận thức lớn lao: Tnú có thừa sự dũng cảm, tình yêu, lòng căm thù và ý chí bất khuất, kiên cường, Tnú hội tụ tất cả những sức mạnh tinh thần và thể chất phi thường, hoang dại của người tráng sĩ Tây Nguyên, nhưng tất cả những phẩm chất ấy vẫn chưa đủ để anh bảo vệ được cuộc sống của vợ con và chính bản thân mình khi đương đầu với kẻ thù bằng hai bàn tay trắng.
Tới bốn lần, trong cả lời trần thuật của đoạn văn và lời kể của cụ Mết, Nguyễn Trung Thành khắc họa bi kịch của Tnú: “Tnú không cứu được vợ con!” để từ bi kịch ấy, từ cái chết đau xót của mẹ con Mai, từ hai bàn tay cụt nốt của Tnú, một bài học lịch sử đã được tổng kết thấm thía: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.
- Và đặc biệt qua lời dặn thiết tha của già làng: “Nghe rõ chưa… nhớ lấy… ghi lấy… nói lại cho con cháu…”, bài học ấy mang tính chất vĩnh hằng của một quy luật lịch sử: bạo lực phản cách mạng chỉ có thể bị tiêu diệt bằng bạo lực cách mạng.
- Ý nghĩa lớn lao của bài học lịch sử ấy đã được chứng minh ngay trong thực tế chiến đấu oanh liệt của làng Xô Man: khi dân làng đã cầm giáo mác đứng lên chống lại súng đạn của kẻ thù thì tất cả sẽ thay đổi.
⇒ Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong niềm cảm hứng chung của văn học 1945 – 1975 khiến nhân vật Tnú không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là một nhân vật có cá tính riêng đặc sắc.
⇒ Thông qua cuộc đời bi tráng của Tnú, tác phẩm đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên, thể hiện mâu thuẫn không đội trời chung giữa nhân dân Tây Nguyên với bè lũ Mỹ – Ngụy. Tác phẩm đã khái quát chân lí lịch sử lớn lao của thời đại, lý giải sâu sắc và thuyết phục lý do vùng dậy và sức mạnh chiến đấu không gì dập tắt nổi của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.
1.2.6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nhân vật Tnú là kiểu nhân vật sử thi nhân vật anh hùng: tính cách, cuộc đời, và số phận của nhân vật này tiêu biểu cho phẩm chất lịch sử và cả cộng đồng Xô Man. Tuy nhiên bên cạnh những phẩm chất mang ý nghĩa đại diện Nguyễn Trung Thành còn chú trọng việc khắc họa đời sống tình cảm, tâm hồn Tnú. Vì thế ở nhân vật này có sự thống nhất hài hòa giữa tính sử thi và chất trữ tình
- Nhà văn còn đặt Tnú vào tình huống xung đột kịch tính giữa nhân dân, cách mạng với kẻ thù ngoại xâm. Từ đó nhà văn đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Vì thế nhân vật hiện lên rất chân thật và cũng rất bi tráng
- Ngôn ngữ sử dụng mang đậm màu sắc hơi thở và sự sống Tây Nguyên. Đặc biệt khi miêu tả Tnú nhà văn có sự sắp xếp thời gian rất sáng tạo có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Vì thế nhà văn đã kéo các sự kiện lịch sử diễn ra trong quá khứ đến gần với hiện tại đem đến cho người đọc cảm giác câu chuyện đó vừa mới diễn ra.
1.2. Nhân vật cụ Mết
1.2.1. Ngoại hình
- Ngay khi vừa xuất hiện, hình ảnh “một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt” của cụ Mết
⇒ Gây ấn tượng về một vị già làng mạnh mẽ.
- Những nét vẽ ngoại hình:
⇒ Hình ảnh của một già làng sắc sảo, kiên nghị, vững chãi, tiềm tàng sức mạnh thể chất, tràn đầy tinh thần.
⇒ Khắc họa hình ảnh có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ với cộng đồng.
1.2.2. Cách nói năng và mệnh lệnh chiến đấu
- Cách nói “như ra lệnh, sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”.
⇒ Giọng nói của cụ trầm và nặng như tiếng vọng lại của núi rừng, non sông; như lời trầm bổng của quá khứ dội về khi kể chuyện về cuộc đời Tnú, về lịch sử oanh liệt của làng Xô man.
- Cụ “không bao giờ khen”, khi vừa ý nhất cũng chỉ nói: “Được!”
⇒ Là tính cách của một người luôn yêu cầu cao ở người khác cũng như chính bản thân mình; đồng thời là thái độ coi trọng mọi người và tự trọng với bản thân.
- Mệnh lệnh chiến đấu cụ phát ra: “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên!...”
⇒ Đơn giản mà chắc nịch.
⇒ Giống như chính những người dân làng Xô Man, giản dị, bình tâm nhưng kiên trung, ngoan cường.
1.2.3. Tâm hồn, tính cách
a. Người có tình yêu sâu sắc, gắn bó máu thịt với quê hương.
- Khi Tnú đi xa về: Cụ dẫn Tnú ra máng nước đầu làng giội rửa
⇒ Âm thầm nhắc nhở người con xa quê: dù có đi tới phương trời nào cũng phải ghi nhớ, trân trọng cội nguồn quê hương.
- Nói chuyện với Tnú: cụ luôn tự hào khẳng định bằng cách nói tuyệt đối có phần hơi cực đoan: “không gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”; “gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”,…
- Cụ luôn tâm niệm và dặn con cháu: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn – như vậy, lòng trung thành với Đảng và cách mạng của cụ cũng xuất phát từ tình yêu sâu sắc với rừng núi quê hương.
b. Một trái tim trĩu nặng tình thương yêu với dân làng Xô Man:
- Khi Tnú trở về thăm làng sau ba năm đi lực lượng: cụ Mết đã đón anh bằng tấm lòng nồng hậu như một người cha:
⇒ Cụ đã đem đến cho người con bất hạnh của dân làng Xô Man một cảm giác ấm áp của gia đình.
⇒ Biểu hiện rõ nhất của nỗi đau đớn, xót thương cho Tnú; nỗi căm giận kẻ thù tàn bạo không thể nguôi ngoai: bàn tay Tnú đã thành sẹo nhưng vết thương trong lòng già làng chưa khi nào thôi nhức nhối.
- Khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú: dù câu chuyện xảy ra đã tới ba năm, cụ vẫn không kìm nổi sự tiếc thương, đau đớn và xúc động, cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt như muốn che giấu sự yếu đuối của lòng mình.
⇒ Chính cử chỉ vụng về ấy lại bộc lộ trái tim nhân hậu và tình yêu thương sâu sắc, chân thành của cụ với dân làng.
- Nhận được gói muối quý giá từ những người đi xa về, cụ luôn chia đều cho mọi người trong làng, để dành cho những người đau ốm, vị mặn của những hạt muối nhỏ bé cũng là vị mặn đậm đà của tình yêu thương trái tim già làng.
c. Cụ Mết là chỗ dựa tin cậy, có sức lôi cuốn mạnh mẽ với dân làng.
- Câu nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn!
⇒ Cụ luôn giữ cho mình tình yêu, niềm tin và lòng trung thành với Đảng, với cách mạng.
⇒ Tình cảm của cụ với cách mạng chân thành, thấm thía khi nó có cội nguồn từ tình yêu núi nước quê hương.
- Cụ là người đứng đầu biết nhìn xa trông rộng, biết lo cho cuộc chiến đấu chung của dân làng: Cụ động viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi: đánh Mỹ phải đánh dài… Cụ đã thể hiện vai trò của một người già làng, tỉnh táo, sáng suốt kiềm chế được nỗi đau đớn và căm hờn ngay trong phút khốc liệt nhất, tìm ra con đường đúng đắn nhất, lãnh đạo dân làng nổi dậy, cầm vũ khí tiêu diệt kẻ thù.
- Trước cái chết của vợ con Tnú, trước cảnh Tnú bị bắt trói, bị tra tấn dã man, cụ Mết đau đớn, song, tỉnh táo không để tình cảm chi phối dẫn đến những hành động bộc phát, cụ nhắc đi nhắc lại: “Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra tau đi vào rừng… tìm bọn thanh niên…tìm giáo mác…"
⇒ Chính lí trí sáng suốt cần thiết của một già làng, của một người đứng đầu, người chịu trách nhiệm với sự sống còn của cả cộng đồng đã giúp cụ Mết lãnh đạo dân làng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù tàn bạo.
- Cụ Mết không chỉ nhắc tới sự kiện đau thương và các cuộc chiến đấu oanh liệt của dân làng trong đêm như một kỷ niệm. Cụ đã khái quát, đúc kết và khắc sâu quy luật tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.
⇒ Chân lý ấy đã được rút ra từ những trang sử đầy máu và nước mắt của dân làng Xô Man, thông qua lời nhắc tha thiết của già làng: ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ lấy. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…, nó sẽ trở thành lời phán truyền thiêng liêng của lịch sử cho các thế hệ mai sau.
d. Đánh giá: Tính cách của cụ Mết tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân tộc ta. Cụ là một hình tượng nhân vật lịch sử, tượng trưng cho lịch sử, cho truyền thống dân tộc.
1.3. Nhân vật Dít
- Dít là bí thư chi bộ, cũng kiên cường, dũng cảm không kém gì Tnú.
- Ngay từ khi còn nhỏ Dít đã tỏ ra là người gan dạ: bị bọn giặc bắn để khủng bố đe dọa và uy hiếp tinh thần của em, ban đầu Dít khóc thét lên nhưng đến viên đạn thứ 10 thì Dít không khóc, nó mở to đôi mắt bình thản nhìn bọn giặc, bình thản như đôi mắt của chị bí thư bây giờ.
⇒ Như vậy đạn tóm xông của lũ giặc có hung bạo đến đâu cũng không khuất phục được trước tinh thần gan dạ dũng cảm kiên cường của Dít.
- Không khuất phục được Dít, bọn giặc đã đánh đập chị Mai và cháu nhỏ bằng những trận gậy sắt cho đến chết. Chứng kiến cái chết thương tâm của mẹ con Mai, cả làng Xô Man ai cũng khóc kể cả cụ Mết nhưng chỉ riêng có Dít là không khóc, nó hoàn toàn câm lặng, mắt ráo hoảnh và đi giã gạo thay chị suốt đêm.
⇒ Hành động này của Dít chính là cách biến đau thương thành hành động đợi một cơ hội nhất định con bé sẽ đứng lên và trả thù cho chị.
- Lớn lên trở thành bí thư chi bộ, Dít rất coi trọng nguyên tắc kỷ luật Đảng. Sau 3 năm Tnú đi lực lượng trở về anh được nhân dân đón tiếp như một người anh hùng nhưng khi Dít và Tnú câu đầu tiên chị hỏi là “Đồng chí về có giấy không?". Ban đầu Tnú không hiểu nhưng sau đó hiểu ra Tnú cười ồ và định đùa anh nhớ làng quá trốn về thăm làng một đêm nhưng Tnú không thể đùa vì tất cả mọi người đều im lặng, trang nghiêm chờ đợi và nếu hôm nay Tnú không có giấy chắc chắn theo lệnh của Dít “Ủy ban phải bắt thôi”. Tnú đã trình giấy có chữ ký của cấp trên. Đến đây Dít đã thay đổi cách xưng hô và thái độ tình cảm. Chị cười gọi Tnú là anh và bày tỏ tình cảm của mình cũng như dân làng “bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
- Dít chiếm được tình cảm cũng như sự tín nhiệm của bà con.
⇒ Cùng với Tnú, Dít là thế hệ được miêu tả trọn vẹn trong tác phẩm. Tnú là anh bộ đội xa quên 3 năm khi trở về được đón tiếp như một anh hùng. Còn Dít, ngày Tnú ra đi là một cô gái non nớt nay đã là bí thư chi bộ. Đó là kết quả tất yếu của quá trình rèn luyện qua nhiều thử thách gay go.
⇒Thế hệ trẻ Tây Nguyên là thế hệ nhiệt thành yêu nước sớm giác ngộ cách mạng, hăng hái nhận nhiệm vụ, gan góc trung thành chiến đấu hết mình, không sợ hy sinh gian khổ, được sự tín nhiệm của bà con và các thế hệ ông cha. Mặc dù thế hệ này thiếu kinh nghiệm trong tiếp xúc trực tiếp với kẻ thù nhưng qua Rừng Xà Nu, Nguyễn Trung Thành vẫn khẳng định họ là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
1.4. Bé Heng
- Bé Heng là nhân vật phụ đại diện cho vẻ đẹp thế hệ măng non của núi rừng Tây Nguyên. Nếu thiếu nhân vật bé Heng, bức tranh vẻ đẹp anh hùng của các thế hệ người dân Tây Nguyên sẽ không hoàn chỉnh.
- Ngay khi nhỏ tuổi đã mang dáng dấp của một anh hùng. “Nó đội một cái mũ xụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự nhưng bên trong vẫn đóng khố” - chân dung bé Heng rất ngộ nghĩnh ngây thơ và đáng yêu. Nhưng điều đáng yêu nhất của bé Heng là rất thông minh, em thuộc từng hầm chông, từng cứ điểm, từng giàn thô. Hình ảnh bé Heng gợi ta liên tưởng tới Tnú ngày nhỏ, ngoài ra bé Heng cũng rất háo hức nhiệt tình tham gia cách mạng. Bé đã nhận nhiệm vụ đón người anh hùng Tnú trở về làng, đấy vừa là một nhiệm vụ, vừa là một sứ mệnh vinh quang
⇒ Bé Heng làm người đọc tin tưởng lớn lên , lớp măng non này sẽ xứng đáng với cha ông.
1.5. Đánh giá
- Qua nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít và bé Heng nhà văn Nguyễn Trung Thành đã ngợi ca các vẻ đẹp của các thế hệ người dân Tây Nguyên. Mặc dù mỗi thế hệ có một đặc điểm riêng nhưng họ đều là những người yêu nước, căm thù giặc, gan góc, trung thành tuyệt đối với cách mạng, vẻ đẹp của họ cũng chính là vẻ đẹp của nhân dân miền Nam trong những năm chống Mĩ đau thương mà anh dũng.
- Để xây dựng thành công các thế hệ người dân Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên những nhân vật mang tính biểu tượng cao. Mỗi nhân vật là đại diện cho một thế hệ chứ không phải đại diện cho cái riêng tư cá nhân mình. Điều này đã làm nên vẻ đẹp sử thi, bi tráng và cảm hứng lãng mạn của thiên truyện.
2. Hình tượng cây xà nu
2.1. Khái quát chung
Rừng xà nu là thiên truyện xuất sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Bằng vốn sống, sự trải nghiệm sâu sắc về con người, vùng đất Tây Nguyên, Nguyễn Thành Trung đã xây dựng được hình tượng cây xà nu, rừng xà nu. Một hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu sức sáng tạo có ý nghĩa tiêu biểu cho thiên nhiên con người và cuộc sống Tây Nguyên.
2.2. Cây xà nu là hình tượng nghệ thuật đặc sắc
- Mở đầu tác phẩm là hình tượng cây xà nu. Đó là cây xà nu đau thương, cây xà nu giàu sức sống, cây xà nu kiên cường dũng cảm “ưỡn tấm người lớn của mình ra che chở cho làng”. Và đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời, kết thúc tác phẩm cũng vẫn là hình ảnh đó “ba người đứng ở đấy nhìn ra xa đến vút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” .
⇒ Câu văn này được nhắc lại ở đoạn kết như một điệp khúc láy lại để nhấn mạnh, gây ấn tượng đậm nét trong phần kết thúc truyện đồng thời khắc họa sâu sắc hình tượng cây xà nu, rừng xà nu.
2.3. Cây xà nu còn được hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô man của anh.
- Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân Tây nguyên:
⇒ Cây xà nu là một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. Họ sống cùng với cây xà nu, gắn bó cùng cây xà nu làm nên nét đẹp đời sống văn hóa và tâm hồn nhân dân Tây Nguyên.
2.4. Cây xà nu còn chứng kiến những trang sử đau thương mà anh dũng nhất của làng Xô Man.
- Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, bọn giặc khủng bố rất gắt gao nhằm tiêu diệt những người dân yêu nước, những người cộng sản và tinh thần kháng chiến của người dân Tây Nguyên. Anh Quyết - người cán bộ cộng sản kiên trung đã hoạt động bí mật trong rừng xà nu để lãnh đạo người dân Xô man đứng lên đánh giặc. Vì thế mà các thế hệ người dân Tây Nguyên đã vào rừng làm liên lạc cho anh Quyết đồng thời bảo vệ cán bộ cộng sản.
⇒ Như vậy trong những đêm người dân làng Xô man mài vũ khí cho lực lượng có sự chứng kiến của đuốc xà nu, lửa xà nu. Nếu không có những đuốc lửa xà nu sẽ không thể có những cây giáo, cây mác, cây rựa được mài bằng ý chí kiên cường, lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần căm thù giặc của người Xô man.
- Nhận được tin làng Xô man mài vũ khí chuẩn bị đứng lên đánh giặc, bọn thằng Dục càng điên cuồng, đã đem quân đến làng Xô man nhằm khủng bố tinh thần yêu nước và đốt cháy mộng cầm giáo cầm mác của làng Xô man. Cụ Mết cùng Tnú và thanh niên đã trốn vào rừng, còn dân làng Xô man thì phải đứng tập trung ở sân nhà ưng, ai ra sẽ bị bắn chết tại chỗ.
- Cây xà nu còn chứng kiến sự kiện lịch sử anh dũng nhất của làng Xô man, đó là sức mạnh của làng Xô man trong đêm đồng khởi. Chứng kiến cảnh vợ con Tnú, cụ Mết đã ra lệnh đồng khởi chém, chém hết. Tất cả thanh niên trong làng mỗi người một cây rựa sáng loáng vùng lên giết chết bọn giặc và xác mười tên lính nằm ngổn ngang trên đống lửa xà nu. Và đêm hôm đó cả rừng Xô man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Như vậy lửa xà nu đã làm sáng lên một chân lý: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
2.5. Cây xà nu còn biểu tượng cho sức sống, phẩm chất tâm hồn và vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên.
- Vai trò chủ đạo của hình tượng cây xà nu được xác nhận qua lời kể của chính tác giả về truyện ngắn này: “Bắt đầu như thế nào? Nhưng quả thật bắt đầu tôi chưa hề có câu truyện, cốt truyện nào cả bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước là một khu rừng xà nu, cây xà nu. Hồi tháng 5 năm 1962 hành quân từ miền Bắc vào tôi cùng đi với Nguyễn Thi, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây thừa thiên giáp lào. Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu từ ngày đó, ấy là một loài cây hùng vĩ và cao thượng man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ và ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi.” Với đặc điểm tự nhiên của cây xà nu một loài cây hùng vĩ cao thượng , man dại, trong sạch, Nguyễn Trung Thành đã tạo được sự tương ứng kì lạ giữa đặc điểm của cây xà nu với phẩm chất tâm hồn người dân Tây Nguyên.
- Cây xà nu là loại cây ham ánh sáng mặt trời, nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây ứa ra, thơm mỡ màng. Cây xà nu ham ánh sáng giống như người dân Tây Nguyên rất yêu cách mạng, yêu cuộc sống tự do, một lòng một dạ trung thành với lý tưởng Đảng. Cụ Mết đã nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn.” Như vậy chừng nào có Đảng có cán bộ cách mạng thì núi rừng Tây Nguyên sẽ được tự do
- Cây xà nu còn là cây phải chịu nhiều đau thương trong bom đạn kẻ thù. Hàng ngày bọn giặc bắn đại bác vào làng Xô man chúng nó bắn đã thành lệ hoặc buổi sáng sớm và xế chiều hoặc đứng bóng và xẩm tối hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Vì cây xà nu kiêu hãnh ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng cho nên hầu hết đại bác của giặc đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn, cây xà nu trở thành đối tượng đầu tiên của sự tàn phán hủy diệt “cả rừng xà nu hàng vạn cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng vùng máu lớn”, “có cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó nhựa còn trong chất dầu còn loãng vết thương không lành được cứ loét mãi ra năm mười hôm thì cây chết.”
⇒ Như vậy cây xà nu là thiên nhiên giữa tầm đại bác, là loại cây chịu nhiều đau thương tàn phá trong bom đạn kẻ thù. Nỗi đau thương đó của cây xà nu cũng là nỗi đau thương của làng Xô man. Lịch sử của làng là lịch sử của những ngày đau thương và nhiều mất mát đã có biết bao nhiêu người hy sinh trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu làng, anh Quyết hi sinh, vợ con Tnú bị tàn sát. Có thể nói cứ mỗi một cây xà nu ngã xuống tướng ứng với một nỗi đau của làng Xô man. Tuy nhiên, có một điều kì diệu là càng trong bom đạn cây xà nu càng đẹp càng tươi xanh càng có một sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi “trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên ngọn xanh dờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời lại có cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”
⇒ Như vậy cây xà nu bất chấp bom đạn như người Tây Nguyên kiên cường dũng cảm không khuất phục trước kẻ thù, không có bom đạn đại bác nào xóa nổi sự tồn tại bền bỉ và kiêu hãnh của làng Xô Man, rừng xà nu. Chọn cây xà nu là biểu tượng, tác giả tạo được sự phù hợp kì lạ giữa những phẩm chất của cây xà nu, rừng xà nu và người Tây Nguyên. Cho nên cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất của người Tây Nguyên. Đó cũng là hình ảnh của nhân dân miền Nam những ngày đau thương và anh dũng. Hình tượng cây xà nu làm cho tác phẩm mang tính sử thi lãng mạn và chất thơ hùng tráng. Cây xà nu là thành công trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành
⇒ Nghệ thuật: để xây dựng thành công hình tượng cây xà nu tác giả sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ từ đó ta thấy được mối liên hệ lạ kì giữa cây xà nu và người dân làng Xô man. Tác giả đã sử dụng bút pháp sử thi với bức tranh hoành tráng về rừng xà nu và phẩm chất của người Tây Nguyên mang tính đại diện cho cộng đồng dân tộc. Ngôn ngữ của tác phẩm rất trang trọng tráng lệ hào hùng có tính biểu tượng cao và có sức gợi cảm. Giọng văn tha thiết trang trọng mang đậm cảm hứng ngợi ca và âm hưởng hùng tráng. Tất cả những sáng tạo này làm cho cây xà nu trở thành một hình tượng độc đáo có một không hai trong cuộc đời của những người nghệ sĩ thiên tài.
3. Tính sử thi và cảm hứng lãng mạn của truyện ngắn Rừng xà nu.
a. Tính sử thi
- Đề tài: tác phẩm đề cập đến vấn đề chung của cộng đồng xã hội, của đất nước. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt của đồng bào Tây Nguyên cũng như của dân tộc ta với bọn đế quốc và tay sai. Từ đề tài này truyện ngắn "Rừng xà nu" đã thể hiện một chủ đề mang tính sử thi đó là chân lý đấu tranh cách mạng chân lý giản dị mà sâu sắc của thời đại được thể hiện qua lời phát biểu của cụ Mết: “chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Bạo lực cách mạng mới đánh đổ được bạo lực phản cách mạng, đấu tranh vũ trang để giải phóng nhân dân, đó là con người tất yếu
- Tư tưởng: Nguyễn Trung Thành đã lý giải cuộc đời số phận của nhân vật chính trong mối quan hệ với lịch sử của cả cộng đồng. Mâu thuẫn trong gia đình Tnú với kẻ thù đã đẩy xung đột nông dân cách mạng với kẻ thù trở thành gay gắt và quyết liệt buộc phải có một cuộc đồng khởi để đánh lại giặc ngoại xâm giành lại cuộc sống tự do cho nhân dân. Đây là con đường tất yếu của lịch sử dân tộc
- Các nhân vật: nhân vật mang tính sử thi phải đại diện cho phẩm chất, sức mạnh, lý tưởng của cả cộng đồng. Trong rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công một tập thể anh hùng những anh hùng được kể từ trong đó đều có tính đại diện cao mang trong mình hình ảnh cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong rừng xà nu rất đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có nét riêng cho cộng đồng chung. Tất cả họ đều giống nhau ở một phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạnh. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái tổng quát. Nhưng ở rừng xà nu cảm hứng về cái chung mang tính chất chi phối
- Hình tượng rừng xà: đây là bức tranh hoành tráng về thiên nhiên trong đau thương mà vẫn rất anh dũng mặc dù bị trúng bom đại bác của giặc hàng vạn cây không còn cây nào không bị thương nhưng chúng vẫn đổ ào ào như một trận bão đồng thời vẫn chứng tỏ sức sinh sôi nảy nở đến lạ thường. Bên cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng đến bầu trời.
- Sự kiện, các nhân vật anh hùng từ cái nhìn chiêm ngưỡng khâm phục cái nhìn mà Chế Lan Viên gọi là cái nhìn của “con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa”. Tất cả các chi tiết đời thường ít được nhắc tới, nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết nhà văn chú ý tới giọng nói ồ ồ dội vang trong lồng ngực của cụ tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một cuộc đời nó cô đúc sâu sắc như những chân lý. Ngay cả cuộc đời Tnú một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hóa và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng nghe, anh đã trở thành niềm tự hào của làng trở thành biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả mọi người ngưỡng vọng học tập
- Ngôn ngữ: tính chất trang trọng, giàu hình ảnh có tính biểu tượng cao và giàu gợi từ gợi cảm
- Giọng điệu: mang âm hưởng hùng tráng lay động và khích lệ mạnh mẽ tình cảm của người đọc
- Thủ pháp nghệ thuật: Nguyễn Trung Thành thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh và cường điệu nhằm khắc họa nổi bật hình ảnh những nhân vật tượng trưng cho phẩm chất cao đẹp và ý chí khát vọng của cả cộng đồng
- Kết cấu đầu cuối tương ứng của tác phẩm cũng góp phần làm nên tính sử thi của thiên truyện.
b. Cảm hứng lãng mạn
- Trong chiến tranh con người Việt Nam phải trải qua nhiều đau thương mất mát nhưng luôn hướng tới tương lai hạnh phúc và niềm vui đây chính là cảm hứng lãng mạn của nhiều tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 và cũng là cảm hứng chủ đạo của Rừng xà nu
- Trước hết được thể hiện qua câu chuyện rất thơ mộng của Tnú và Mai. Lúc nhỏ Mai và Tnú vào rừng làm liên lạc đưa thư cho anh Quyết, được anh Quyết dạy chữ cách mạng cho nhưng Tnú rất nhanh quên. Tnú đã đập bể cái bảng bỏ ra suối ngồi lì ở đó một ngày rồi lấy đá đập vào đầu cho chảy máu ra, được anh Quyết dỗ dành, dạy bảo, Tnú đã gọi Mai ra hốc đá hỏi Mai cái chữ. Đây là kỉ niệm tuổi thơ ngây thơ trong sáng và ngọt ngào. Nhất là khi Mai thành thiếu nữ đón Tnú ở ngã ba đường rừng vừa vượt ngục trở về Mai đã cầm bàn tay của Tnú vừa yêu thương vừa xấu hổ và hai người đã trao cho nhau mối tình đầu. Đây là câu chuyện đẹp như ánh trăng rằm lung linh tỏa sáng núi rừng Tây Nguyên. Đây là yếu tố góp phần làm nên vẻ đẹp lãng mạn của thiên truyện.
- Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu vừa mang vẻ đẹp bi tráng và giàu chất thơ. Đoạn văn miêu tả cây xà nu hướng về ánh sáng mặt trời thật lãng mạn “ Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, thứ ánh sáng từ trong rừng từ trên cao rọi xuống từng luống lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từng nhựa cây ứa ra. Thơm mỡ màng”
⇒ Như vậy kẻ thù càng tàn bạo man rợ bao nhiêu thì thiên nhiên Tây Nguyên càng chứng tỏ sức mạnh của mình bấy nhiêu. Đây chính là cảm hứng lãng mạn của Rừng xà nu và của văn học Việt Nam một thời.
a. Nội dung
- Truyện ngắn “Rừng xà nu” là một trong những sáng tác thành công nhất về cuộc sống con người Tây Nguyên
- Là bản anh hùng ca của thời chống Mỹ, là tiếng nói của lịch sử và thời đại, không chỉ ca ngợi ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu ngoan cường của người dân Tây Nguyên mà còn lý giải con đường giải phóng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống Mĩ cứu nước.
- Truyện ngắn “Rừng xà nu” là bài ca về tình yêu cuộc sống, là lời nhắc nhở con người hãy làm tất cả vì cuộc sống của đất nước, nhân dân, cũng là của chính bản thân mình.
b. Nghệ thuật
- Câu chuyện được kể theo hình thức truyện lồng truyện, truyện của một đời người của Tnú lại được kể trong một đêm qua lời kể của cụ Mết
- Xây dựng được không khí sử thi hào hùng, tráng lệ qua lối kể khan của cụ Mết ở nhà ưng tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và truyền thuyết.
- Xây dựng được những hình tượng đặc sắc mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là hình tượng của cây xà nu; hình tượng những thế hệ xà nu - những thế hệ của bản làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên; hình tượng người anh hùng Tnú
- Ngôn ngữ đặc sắc, mang đậm chất Tây Nguyên
“ Tôi yêu say mê cây xà nu. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứ nhựa. Tán lá vừa thanh vừa rắn rỏi, mênh mông tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau”. Trong dụng ý miêu tả của mình, Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn cánh rừng xà nu bạt ngàn nằm cạnh con nước lớn, chạy xa tít tắp đến tận chân trời để làm nền, cảnh cho tác phẩm của mình, để từ đó hiện lên là hình ảnh một tập thể anh hùng Tây Nguyên bất khuất, kiên cường. Đó là những con người mãi mãi đi vào huyền thoại của thế kỷ 20, đi vào những trang sử hào hùng của dân tộc. Và trong những đêm tối được ngọn lửa của Cách mạng soi đường, những trang viết về họ vẫn luôn được thăng hoa, được ghi nhớ và được kể lại cho đến muôn đời sau. Trong vang vọng của núi rừng, trong tâm trí người Xô Man cũng như bạn đọc vẫn còn đây câu nói trầm ấm đầy uy lực của cụ Mết “Nhớ lấy, ghi nhớ…Chúng nó cầm súng, mình phải cầm mác”.
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những gian khổ, hi sinh” – nhà văn Nguyễn Khải đã từng viết như thế. Cũng là cảm hứng về sự bất diệt, “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành trở thành một bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. “Rừng xà nu” tái hiện một giai đoạn đen tối mà Cách mạng miền Nam bị khủng bố ác liệt, đồng thời vực dậy sức mạnh của con người. Qủa thật, phải vùng lên chiến đấu mới có thể dẹp tan những thế lực bạo tàn, để duy trì sự sống cho đất nước và nhân dân trường tồn mãi mãi…
1. “Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà văn hóa của Tây Tiên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền Rẻo cao đất nước. Văn Nguyên Ngọc cuốn hút người ta, không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây thơ, đầy những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang – Mèo Vạc” (GS.Nguyễn Đăng Mạnh)
2. "Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói, Nguyên Ngọc suốt đời săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng". (Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
3. "Gần nửa thế kỉ qua, truyện ngắn “Rừng xà nu” như một nỗi ám ảnh đẹp từ cảnh sắc đến con người giữa chốn ngàn xanh". (Trích bài viết “Về lại “Rừng xà nu”, Báo Kon Tum Online, Tạ Văn Sỹ)
4. "Và ông cụ Mết của tôi cũng tất yếu phải đến. Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn của các thế hệ sau." (Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)
5. "Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm dài như cả một đời. Nhưng nó cũng ngắn, cũng chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau khổ và hạnh phúc trường tồn ở đây, bởi "nhà ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...". (Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)