Trong nền thơ ca hiện đại, có lẽ chỉ Tố Hữu mới xứng đáng được tôn vinh là lá cờ đầu của nền thơ ca Cách mạng. Với ông, “làm thơ là làm Cách mạng” và Việt Bắc chính là đỉnh cao của thơ ông. Bài thơ vừa là khúc hùng ca vừa là bản tình ca về kháng chiến, về Cách mạng của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử gian khổ mà hào hùng. Bài thơ ghi lại nỗi niềm của những con người trong kháng chiến, đo là người cán bộ Cách mạng và nhân dân Việt Bắc, những con người đã gắn bó thủy chung sâu sắc trong suốt mười lăm năm kháng chiến trường kỳ.
“Chín năm nên một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là mảnh đất quê hương của kháng chiến, của những anh hùng, đó là mảnh đất trung du nghèo khó mà sâu nặng ân tình khiến ai đã đặt chân đến cũng phải bồi hồi xuyến xao. Mảnh đất ấy trở thành một niềm thương, nỗi nhớ cho những ai đã từng gắn bó mà phải chia xa. Tố Hữu – lá cờ đầu của nền thơ ca Cách mạng cũng có cảm xúc như vậy mà viết lên bài thơ “Việt Bắc” – tuyệt tác của đời mình. Bài thơ vừa là khúc hùng ca vừa là bản tình ca về kháng chiến, về Cách mạng của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử gian khổ mà hào hùng. Bài thơ ghi lại nỗi niềm của những con người trong kháng chiến, đo là người cán bộ Cách mạng và nhân dân Việt Bắc, những con người đã gắn bó thủy chung sâu sắc trong suốt mười lăm năm kháng chiến trường kỳ.
1. Tác giả
• Vị trí văn học sử: Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu (cánh chim đầu đàn) của nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ông đã hiến dâng cả cuộc đời và tâm hồn cho cách mạng và cho thơ.
⇒ Con đường thơ Tố Hữu song hành với con đường đấu tranh cách mạng của chính ông cũng như của cả dân tộc trong suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài.
• Phong cách thơ Tố Hữu:
- Thơ Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị.
- Thơ Tố Hữu còn thiên về khuynh hướng sử thi và tính dân tộc
- Bên cạnh những đặc điểm trên, thơ Tố Hữu còn có giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, sâu lắng. Giọng điệu đặc biệt này không chỉ được thừa hưởng từ điệu hồn con người xứ Huế mà còn xuất phát từ quan niệm của Tố Hữu về thơ: “Thơ là chuyện đồng điệu, nó là tiếng nói của một người đến với những người nào đó có sự cảm thông.”
2. Tác phẩm
- “Việt Bắc” không chỉ là đỉnh cao thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp.
⇒ Bài thơ vừa là bản hùng ca, vừa là khúc tình ca về ân tình Cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
- Về địa danh Việt Bắc: Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của Cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 1940 đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây, người dân Việt Bắc đã từng che chở, đùm bọc, sát cánh bên bộ đội, cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập.
- Hoàn cảnh sáng tác:
⇒ Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
- Đoạn trích “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia ly đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.
⇒ Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia ly giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.
1. Cuộc chia tay bâng khuâng lưu luyến giữa kẻ ở, người đi.
1.1. 4 câu đầu
- Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ chứa nhiều cảm xúc: “Mình về mình có nhớ ta”
⇒ Câu hỏi chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng: khi người chiến sĩ cách mạng về xuôi rồi còn có nhớ đến người Việt Bắc hay không?
⇒ Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm những tình cảm lớn lao của thời đại mới.
⇒ Với cách xưng hô “mình – ta” đậm chất ca dao cùng với điệp từ “mình” đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ càng trở nên day dứt khôn nguôi.
- Người Việt Bắc muốn hỏi người kháng chiến có nhớ: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
+ “Mười lăm năm”:
+ Từ “ấy”: làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể hiện sự trân trọng của tác giả với những ngày tháng gắn bó.
+ Những từ “thiết tha”, “mặn nồng”: nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn giữa người Việt Bắc và người cách mạng.
⇒ Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến sĩ của người dân Việt Bắc.
- Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ cách mạng:
“Mình về mình có nhớ không,
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
+ Điệp từ “nhìn” và “nhớ”: nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại, mong muốn những người cách mạng luôn nhớ về nơi Việt Bắc - nơi có những con người sắt son, thủy chung, luôn mong nhớ về người cách mạng.
⇒ Bốn câu thơ đầu tiên là lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi.
⇒ Với (lối đối đáp, cách xưng hô “mình- ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là kết hợp với câu hỏi tu từ) đã cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung son sắt của người Việt Bắc.
⇒ Qua đó ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây: dù phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.
1.2. 4 câu thơ sau
- 4 câu thơ sau là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến, nhớ nhung:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
+ Đại từ phiếm chỉ “ai”: mơ hồ, vang vọng như muốn gọi người chiến sĩ ở lại, như tiếng lòng không muốn chia xa.
+ Từ “tha thiết”: như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho ta cảm nhận được tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như vô cùng sâu nặng.
+ Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn”: chỉ tâm trạng người ra đi.
⇒ Tất cả đã tạo nên tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng về xuôi, khi trở về xuôi vẫn còn mang trong mình nỗi nhung nhớ, day dứt khôn nguôi, cả sự lo lắng trong tâm trạng của người cán bộ cách mạng.
⇒ Qua đó ta có thể cảm nhận được tình cảm của người cách mạng đối với Việt Bắc cũng sâu nặng không kém gì tình cảm của người Việt Bắc dành cho họ.
- Hai câu thơ cuối là hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
+ “Áo chàm”:
+ Từ “phân li”: như thể hiện sự chia cắt không ngày gặp lại.
⇒ Qua đó thể hiện nỗi tiếc thương nhung nhớ, khẳng định tình cảm gắn bó sâu đậm của người Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng.
+ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”:
⇒ Tám câu thơ ngắn gọn nhưng mang biết bao ý nghĩ. Qua đó cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm thủy chung son sắt, gắn bó sâu nặng giữa người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng về xuôi. Qua đó ta thấy được tâm trạng bồi hồi lưu luyến day dứt của họ.
⇒ Không chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ còn thành công về nghệ thuật. Với lối đối đáp, cách xưng hô mình –ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn từ bình dị, đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
⇒ Qua đoạn thơ ta đã cảm nhận được một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, tình yêu thương mà người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Những ân tình ấy sẽ sống mãi trong lòng người đọc hôm nay và mai sau.
1.3. 12 câu tiếp
- Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
+ Loạt cụm từ “có nhớ”: tâm trạng của người ở lại - một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết cán bộ về xuôi có còn nhớ chiến khu nữa không?
⇒ Để cho người ở lại hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ.
+ Nhớ thiên nhiên Việt Bắc “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
⇒ Câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc.
+ Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt, khó khăn của thiên nhiên, mình và ta còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ: "miếng cơm chấm muối".
+ Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”: gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no.
- Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
+ Hoán dụ “rừng núi” - rừng núi chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi, nhằm nhấn mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ.
+ "Trám bùi" và "măng mai" là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên Việt Bắc.
⇒ Mình về khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám bùi, măng mai mà cũng không ai thu hái.
- Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn:
“Mình đi, có nhớ những nhà,
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
Mình về, có nhớ núi non,
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
+ Cụm từ “nhớ những nhà” - biện pháp hoán dụ – gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không - nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm, nhớ đến “hắt hiu lau xám”.
+ Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc "lau xám" càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm "lòng son", tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Và có lẽ chính nền lau xám hắt hiu ấy càng làm đậm thêm những tấm lòng cao đẹp kia.
⇒ Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc - quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng - càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.
- Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
+ Vế thứ nhất là hai danh từ riêng: Tân Trào, Hồng Thái – đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân đại hội 8/1945, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh tổng khởi nghĩa. Bên gốc đa Tân trào, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
+ Vế sau là những danh từ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi gắn bó với cả cộng đồng và đôi lứa.
⇒ Chỉ với 12 câu thơ, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỷ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách mạng.
⇒ Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 đều đặn, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp với phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.
1.4. 4 câu thơ cuối
- Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.”
+ Sử dụng phép lặp đan xen giữa “ta” – “mình” cùng từ “với” như một thứ keo gắn kết ‘ta” – “mình”, “mình” – “ta” à gợi tả sự quấn quít, giao hòa giữa người đi, kẻ ở không thể tách rời.
+ “Sau trước”: gợi một khoảng thời gian dài từ trước đến sau, từ quá khứ đến hiện tại – tương lai, khoảng thời gian đủ để hiểu nhau khi đã có những năm tháng gắn bó sâu nặng, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi...
+ “Đinh ninh” là chắc chắn, là không quên, không đổi. Tình cảm trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời gian, không bao giờ nhạt phai, thay đổi.
“Mình đi, mình lại nhớ mình,
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.”
+ Hai đại từ Ta – Mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt, ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một.
+ Câu thơ 8 đã xuất hiện hình ảnh so sánh phảng phất phong vị ca dao: “Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.” Hình ảnh thơ đã nhấn mạnh sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng, hiện hữu như nước trong nguồn đầy ắp, lặng thầm và vô tận. Hình ảnh ấy còn gợi suy ngẫm sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thủy chung, tình nghĩa “uống nước nhớ nguồn”.
2. 28 câu tiếp: Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc trong cuộc sống kháng chiến
2.1. 18 câu thơ đầu
- Trong 6 câu thơ đầu đoạn thơ, nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với những cành thân thuộc, bình dị. Cả ba cặp lục bát đều bắt đầu bằng từ “nhớ” thật tha thiết. Sắc thái và mức độ của nỗi nhớ được miêu tả qua một so sánh ngọt ngào:
“Nhớ gì như nhớ người yêu”
+ Lời thơ với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc.
+ "Như nhớ người yêu" là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn ; có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Một nỗi nhớ nồng nàn, đằm thắm, tha thiết.
- Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa :
“Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
+ Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh.
+ Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương: "Sớm khuya bếp lửa người thương đi về".
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.”
- Kết thúc khổ thơ, tình cảm lại tỏa ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bác. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
+ Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương.
+ Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc.
⇒ Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi” cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.
⇒ Có thể thấy, đoạn thơ đã thể hiện rõ nỗi nhớ da diết của người đi Việt Bắc, đó là tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc Bằng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển; hình ảnh trong sáng giản dị, gợi cảm, đoạn thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với độc giả.
+ Từ “đây-đó” chỉ vị trí liền kề, cụm từ "đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, chỉ gian khổ và niềm vui. Hai câu thơ diễn tả sự gắn bó mật thiết giữa người Việt Bắc với người cách mạng, cùng chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ niềm vui.
- Thấp thoáng hiện ra trong bức tranh rừng núi ở đoạn trên, đến đoạn thơ sau, con người trực tiếp xuất hiện qua những hoài niệm xúc động về cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến.
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
+ Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.
⇒ Người Việt Bắc luôn chia sẻ khó khăn, thiếu thốn cùng người cách mạng: một củ sắn chia nhau bên bếp lửa đêm đông, một bát cơm sẻ nửa và một chiếc chăn sui đắp chung. Đắng cay cùng hưởng, ngọt bùi cùng chia. Tất cả những khoảnh khắc ấy cứ sáng mãi trong lòng người ra đi, sống trong tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn một thời không thể xoá nhoà.
⇒ Tình thương đã đem đến cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng, tình thương cũng là nguồn cội sâu xa nhất của nỗi nhớ
- Hai câu tiếp theo là hình ảnh người mẹ, kết tinh hình ảnh con người và cuộc sống kháng chiến:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”
+ Hình ảnh chọn lọc: “Người mẹ nắng cháy lưng...” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang cán bộ cách mạng. Đó còn là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong ký ức của người về xuôi.
+ Hình ảnh mẹ Việt Bắc rất giống như hình ảnh bà mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”: “Mẹ thương Akay, mẹ thương bộ đội” (Nguyễn Khoa Điềm).
- Nhớ về Việt Bắc là nhớ về cuộc sống, sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.”
+ Điệp từ “nhớ”: thể hiện nỗi nhớ dạt dào, khái quát cảm hứng chủ đạo trong cả đoạn thơ. Đó là nỗi nhớ tha thiết hướng tới những sinh hoạt kháng chiến, những kỉ niệm về con người nơi chiến khu.
+ Nỗi nhớ hướng tới những “lớp học i tờ” – hình ảnh cảm động của phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ những ngày đầu kháng chiến do chính phủ, cụ Hồ vận động nhân dân tự mở, người có chữ dạy cho người chưa biết.
+ Hình ảnh những “đuốc sáng” giữa đồng khuya vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa biểu tượng gợi không khí vui vẻ, tưng bừng của đêm liên hoan. Đồng thời đó chính là nguồn sáng, là niềm vui xua bớt đi cái tối tăm, khó nhọc trong đời sống kháng chiến còn quá nhiều gian khổ.
+ Nỗi nhớ còn hướng về những ngày sinh hoạt ở “cơ quan” (những lán trại làm trong rừng). Đó là những tháng ngày vô cùng gian nan, vất vả, phải cùng nhau chống chọi với thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt: “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”. Đồng thời cũng phải đối mặt với những thiếu thốn, khó khăn về vật chất: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
+ Đối lập với những khó khăn, gian khổ đó là tinh thần, ý chí, nghị lực của người lính kháng chiến được tác giả tập trung biểu đạt qua chi tiết tiếng ca: “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
+ Nhớ Việt Bắc còn là nhớ những âm thanh rất đặc trưng của miền rừng núi: tiếng mõ gọi trâu về trong rừng chiều, tiếng chày giã gạo đêm đêm ngoài suối xa. Cùng hàng loạt những hình ảnh, âm thanh thân quen: tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, tiếng suối xa… âm thanh thiên nhiên gợi hồn núi rừng Việt Bắc - âm thanh cuộc sống bình dị, ấm áp mà vui tươi.
⇒ Nghệ thuật: Biện pháp điệp cấu trúc câu “Nhớ sao” , từ “sao” nằm ở trọng âm kết hợp với từ “nhớ” làm cho giọng điệu thơ tha thiết, khơi gợi cảm xúc phù hợp với tâm trạng người cán bộ Cách mạng khi chia tay đồng bào về xuôi. Thể thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào khiến cho những câu thơ trở thành tiếng nói ân tình sâu nặng.
2.2. Bức tranh tứ bình
a. Nhận xét chung:
- Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hòa quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ cách mạng. Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tình của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt.
- Hình ảnh thiên nhiên trong thơ của Tố Hữu đẹp đẽ, trong sáng, đầy sức sống đến lạ thường. Bốn câu thơ là bốn bức tranh bốn mùa trong năm, mỗi mùa một sắc thái riêng biệt.
b. Hai câu đầu: Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:
“Ta về, mình có nhớ ta”
⇒ Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:
“Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”
+ Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh kín đáo, tinh tế của Tố Hữu với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
⇒ Hoa và người hòa quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con người và ngược lại.
c. Tám câu thơ sau :
- Nhận xét: Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình (xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc họa một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn.
- Bức tranh thứ nhất:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
+ Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Hai tiếng “rừng xanh” toát lên sức sống bạt ngàn của núi rừng.
+ Câu thơ tám thấp thoáng hình ảnh con người: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
- Bức tranh thứ hai:
+ Bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:
“Ngày xuân mở nở trắng rừng”
⇒ Hình ảnh mùa xuân Việt Bắc đã sống lại trong ký ức một vẻ đẹp rất riêng biệt. Bởi lẽ khi mỗi độ xuân về trên mọi miền đất nước, nơi đâu cũng thấy mai vàng nở rộ hay đào khoe sắc thắm, còn đến với nơi đây lại là “mơ nở trắng rừng”.
+ Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt động có vẻ tỉ mỉ: “Người đan nón chuốt từng sợi giang.”
⇒ Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm.
- Bức tranh thứ ba:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
+ Câu thơ mở đầu bằng âm thanh (ve kêu), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè).
⇒ Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên.
⇒ Sự chuyển đổi của thời gian, sự chuyển vần từ xuân qua hè được thể hiện qua âm thanh tiếng ve, diễn tả tinh tế qua từ “đổ”.
+ Trong lời thơ tám chữ thấp thoáng hình bóng con người, người con gái sơn cước đang “hái măng một mình” giữa khu rừng vắng chỉ có tiếng ve kêu rả rích như người bạn đồng hành, toát lên vẻ đẹp thơ mộng giàu sức sống.
- Bức tranh thứ tư:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
+ Ánh trăng vàng êm dịu trải lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả.
+ Giữa bao la ánh trăng dịu mát ấy vang lên “Tiếng hát ân tình thủy chung”.
⇒ Nét truyền thống, tính dân tộc xuyên suốt bài thơ, nay thể hiện rõ ràng hơn qua lời nhắc ân tình thủy chung: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Uống nước nhớ nguồn”.
d. Đánh giá:
- Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thi sĩ khắc họa bức tranh quê hương Việt Bắc thời kì kháng chiến toát lên vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa ở Việt Bắc và hình ảnh con người cần cù chịu thương chịu khó mãi đọng lại trong tâm hồn người ra đi. Phải chăng, “có nơi đâu đẹp tuyệt vời – quê hương Việt Bắc nghìn đời mến yêu.”
- Hàng loạt điệp từ nhớ trong một khổ thơ như là sự nối dài của lòng hoài niệm không dứt. Thể thơ lục bát đậm đà tính dân tộc với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết; Cách ngắt nhịp tinh tế tạo âm điệu trầm bổng cho câu thơ; Hình ảnh thơ gần gũi, bình dị, mang đậm màu sắc Việt Bắc; Ngôn ngữ thơ trong sáng, tinh tế, giàu sức gợi.
- Có thể nói đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm.
3. Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc trong chiến đấu
- Đoạn thơ đã chuyển từ nhịp ru ngọt ngào, tha thiết của bản tình ca ân nghĩa sang nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ của khúc ca hào tráng đậm chất sử thi:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”
⇒ Từ “nhớ”: mở ra nỗi nhớ da diết về Việt Bắc, cũng là cảm hứng chủ đạo của toàn bài.
+ Cụm danh từ “giặc đến giặc lùng”: đánh thức trong ký ức những người từng tham gia kháng chiến một chặng đường gian nan, những ngày tháng đen tối ở giai đoạn đầu khi quân dân ta thiếu thốn trăm bề, đó là giai đoạn cầm cự không thể không dựa vào núi rừng hiểm trở.
- “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây”:
+ Không chỉ con người mà cả rừng núi cũng chung sức “cùng đánh Tây”.
+ Thiên nhiên đất trời núi rừng Việt Bắc đã trở thành những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của quân dân ta.
- “Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
+ Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố mà kẻ thù không thể nào đột nhập. Bên cạnh núi có những cánh rừng vừa bao vây quân thù, vừa chở che cho bộ đội.
⇒ Núi, rừng vốn là những vật vô tri, song giờ đây dưới con mắt của nhà thơ, hay nói đúng hơn trước cuộc kháng chiến gian khổ của người dân Việt Bắc, núi rừng thiên nhiên cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân tham gia chiến đấu.
+ Hai từ “che” và “vây”, đối lập nhau, càng làm nổi bật vai trò của những cánh rừng.
⇒ Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biến núi rừng, thiên nhiên thành những người con Việt Bắc anh dũng kiên cường.
- “Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
+ Khung cảnh chiến đấu vừa hùng dũng, vừa mơ mộng. Đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Sương như cũng che chở cho quân ta và cản bước quân thù.
⇒ Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ mảnh đất, bảo vệ quê hương yêu dấu.
+ Cụm từ “cả chiến khu một lòng”: nhấn mạnh thêm tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó con người và thiên nhiên.
⇒ Mọi cảnh vật, con người đan xen vào nhau, tuy nhiều mà thành một. Tất cả bừng lên một ngọn lửa căm hờn, một ngọn lửa hừng hực quyết chiến.
⇒ Sáu câu thơ đã phần nào thể hiện lòng yêu mến, tự hào và cảm phục của nhà thơ trước mảnh đất và con người Việt Bắc nói riêng cũng như nhân dân Việt Nam nói chung.
- Sức mạnh của khối đại đoàn kết cộng đồng cùng ý chí anh hùng đã tạo nên cho nhân dân Việt Bắc làm nên những chiến công anh hùng. Hàng loạt những địa danh vang lên:
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng,
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”
+ Những từ “nhớ” liên tiếp điệp lại trong các dòng thơ: Cho thấy nỗi nhớ hòa quyện với niềm phấn khích của chiến thắng đang ào ạt trào dâng trong dòng hoài niệm.
+ Mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. Đây Phủ Thông, kia đèo Giàng rồi những trận thủy chiến trên sông Lô… (Nhớ sông Lô là nhớ đến chiến thắng VB thu đông 1947; Nhớ phố Ràng, nhớ trận công kiên chiến có pháo binh tham gia vào cuối năm 1949..)
+ Những chiến thắng đó không chỉ trải dài theo chiều rộng không gian mà còn trải cả trong chiều dài nỗi nhớ. Nhà thơ đặt câu hỏi, nói đúng hơn là người ở lại hỏi người ra đi: “Ai về ai có nhớ không?”
⇒ Khí thế hào hùng của quân và dân ta trên chiến trường luôn thật bất khuất. Tinh thần ấy đã làm lên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
- Cảm hứng yêu nước đã thổi vào tâm hồn thi sĩ một luồng sinh khí hào hùng và hoành tráng:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.”
+ Hình ảnh “những đường Việt Bắc” được nhắc đến trong niềm tự hào sâu sắc với cảm giác được làm chủ những vùng không gian rộng lớn của Tổ Quốc.
- Vẻ đẹp hùng dũng của đoàn quân được tái hiện rất cụ thể qua câu thơ so sánh:
“Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
⇒ Trên khắp nẻo đường Tổ quốc, những đoàn quân “đêm đêm rầm rập như là đất rung” tiếp bước nhau ra trận. Trong mỗi con người đều hừng hực ý chí chiến đấu bởi niềm tự hào về truyền thống đất nước trào dâng trong họ.
“Quân đi điệp điệp trùng trùng”
+ Từng đoàn quân bước đi mạnh, nhanh, dồn dập trong đêm.
+ Từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” gợi sự đông đảo, mạnh mẽ như trời rung, đất chuyển.
⇒ Cảm hứng sử thi hào tráng đã khiến sức mạnh kì diệu của con người được nâng lên tầm vũ trụ.
+ Hình ảnh những đoàn người hành quân trong đêm là một thực tế của chiến trường những ngày kháng chiến. Trong đêm tối, chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho những trận đánh hay chiến dịch, sự chuẩn bị ấy không phải là một vài đêm mà là “đêm đêm”, “nghìn đêm” – những chi tiết ước lệ chỉ một thời gian lâu dài của cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ.
⇒ Cảm hứng sử thi hào tráng đã khiến sức mạnh kì diệu của con người được nâng lên tầm vũ trụ. Từ đó, câu thơ gợi những suy ngẫm sâu xa về cuộc kháng chiến trong tầng nghĩa ẩn dụ: đó là hình ảnh của đêm tối gian lao, khi cả dân tộc ta kiên cường vượt qua mọi thử thách để đến với “ngày mai” tươi sáng.
- Trong đoàn quân đó có những con người không chỉ biết cầm súng chiến đấu mà họ còn là những thanh niên đầy lãng mạn:
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
+ Họ làm bạn với trăng, sao. Trong đêm tối, ánh sao soi đường cho các chiến binh, chia sẻ với họ những tâm tư tình cảm. Cảnh thật đẹp và mơ mộng quá. Không gian đang sục sôi bỗng như lặng đi trước một cảnh tượng đẹp. Nhạc thơ cũng trầm lắng lại khiến hồn thơ bay bổng diệu kỳ.
+ “mũ nan” ta có thể hiểu là vẻ đẹp của đoàn dân công. Cùng với những chiến binh, bao đoàn dân công xung phong ra tiền tuyến:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”
+ Đó là lực lượng không thể thiếu trong cuộc kháng chiến trường kì vĩ đại của dân tộc. Những đoàn dân công trên những chiếc xe thồ, ngày đêm tải gạo, tia vũ khí ra chiến trường. Đó là hình ảnh đoàn người đã khiến Bác thương đến không yên giấc ngủ:
“Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn.”
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
+ Một lần nữa, nhà thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ khi viết “đỏ đuốc” chứ không phải đuốc đỏ, một màu đỏ được nhấn mạnh như thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến nhất định thắng lợi.
+ Hình ảnh “bước chân nát đá” gợi liên tưởng đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” trong dân gian, qua đó nhà thơ khắc họa sinh động sức mạnh và ý chí kiên cường của những người con dũng cảm có thể vượt lên trên mọi khó khăn, có thể chiến thắng mọi gian khổ, thử thách.
+ Qua biện pháp tu từ nói quá, sức mạnh của họ được nhân lên gấp bội. Muôn tàn lửa bay sau lưng họ như những khó khăn đã bị dẹp lại phía sau.
⇒ Sức mạnh của những con người đó thật phi thường.
- Với sức mạnh phi thường, họ là niềm tin, là tương lai của đất nước. Cuối cùng sức mạnh anh hùng đã vượt qua:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
+ “sương dày” ở đây không chỉ đơn thuần là khó khăn về thiên nhiên, khí hậu mà đó còn là sự khó khăn về vật chất trong những ngày đầu đánh Pháp. Tuy chúng ta chỉ có vũ khí giáo mác thô sơ nhưng qua hình ảnh “đèn pha bật sáng” - ngọn đèn từ những tiểu đội xe không kính trong thơ Phạm Tiến Duật – ta thấy, trong những năm tháng chiến tranh ấy, quân dân ta càng đánh lực lượng càng hung hậu, chiến thắng càng giòn giã.
+ Và toàn bộ niềm tin của tác giả được gói gọn trong cụm từ “ngày mai lên” – một ngày mai tươi sáng, huy hoàng của dân tộc. Khó khăn gian khổ như những bóng đêm triền miên đã khép lại. Trước mắt đoàn quân, ánh đèn pha bật sáng như ánh nắng của ngày mai. Đoàn quân cứ bước đi trong niềm tin và hi vọng. Họ hi vọng ở một ngày mai tươi sáng. Toàn bộ tâm trí và dũng khí của họ đều vì một ngày mai đó. Có thể nói câu thơ thể hiện niềm lạc quan của nhà thơ cũng như cả quân dân, núi rừng Việt Bắc, những câu thơ âm vang niềm tin và như một dự cảm về ngày chiến thắng.
- Nếu như tám câu thơ trên là bản hùng ca của Việt Bắc thì bốn câu sau là khúc ca khải hoàn, ăn mừng chiến đấu, lan tỏa khắp nẻo đường đất Việt từ địa đầu Cách mạng đến cuối dải đất chữ S:
“Tin vui chiến thắng trăm miền,
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
+ Nhịp thơ nhanh, dồn dập, sảng khoái.
+ Những từ “vui” điệp lại trong cả bốn dòng thơ cùng sự nối tiếp các cụm từ “vui về”, “vui từ”, “vui lên”, những địa danh liên tiếp hiện ra theo bước đi mạnh mẽ của chiến thắng.
⇒ Đó là những yếu tố ngôn từ đặc sắc thể hiện sinh động không khí náo nức, say mê của quân dân Việt Bắc ngày chiến thắng. Mỗi câu thơ hiện lên như một nốt nhạc ngân vang réo rắt trong khúc hùng ca Cách mạng.
⇒ Chỉ với một đoạn thơ ngắn, Tố Hữu đã tái hiện được vẻ đẹp anh hùng của nhân dân, núi rừng Việt Bắc nói riêng và sức mạnh anh hùng của dân tộc Việt Nam nói chung. Sức mạnh của khối đoàn kết cộng đồng chính là sức mạnh làm nên chiến thắng. Thể thơ lục bát, nhịp điệu trầm hùng, uyển chuyển càng làm bài thơ thêm trang trọng, giàu chất hồi tưởng.
4. Vai trò của Việt Bắc
- Đoạn cuối là những hoài niệm giản dị mà trang trọng về cuộc họp của chính phủ trong hang núi:
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương chính phủ họp bàn việc công”
+ 2 đại từ "ai" : là đại từ phiếm chỉ người cán bộ về xuôi với người Việt Bắc: tuy 2 mà như 1.
⇒ Nhắc nhở lại những kỉ niệm tươi sáng của đất nước. Tình nghĩa con người với các cán bộ, tình nghĩa con người luôn son sắt, thủy chung với cách mạng
+ Câu hỏi tu từ "ai về có nhớ ai không?": là một câu hỏi giàu nghệ thuật để hỏi chính lòng tác giả về nỗi nhớ khi đất nước độc lập mà đã phải trải qua biết bao khổ đau trong kháng chiến trường kỳ
+ Không gian của cuộc họp là hang núi chật hẹp, vậy mà vẫn lồng lộng gió núi, vẫn rực rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hòa ánh nắng...
⇒ Cảnh đẹp trang nghiêm và phóng khoáng trong ngọn gió của thời đại mới - con đường của cách mạng Việt Nam đã thực sự chuyển từ đêm tối gian lao sang ngày mai tươi sáng.
+ Biểu tượng cho niềm tin chiến thắng với 1 loạt hình ảnh :" ngọn cờ đỏ thắm"; "rực rỡ sao vàng"; kết hợp với âm hưởng tươi vui, mang lại niềm tin sáng ngời vào Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Nhân dân.
+ Đặt ra 2 nhiệm vụ cấp bách trong viễn cảnh đang trên đà thắng lợi đó là:
⇒ Tuy con khó khăn nhưng đất nước ta đã từng bước tiến đến tự do, độc lập
⇒ Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ
+ Nghệ thuật: câu hỏi tu từ, đảo ngữ " nắng trưa rực rỡ sao vàng"; thơ lục bát trữ tình, tươi vui, mang lại không khí thắng lợi cho cách mạng, mở ra thời kỳ mới tươi sáng cho non sông.
- Nỗi nhớ của cán bộ về xuôi cũng như của nhân dân Việt Bắc hướng về vị cha già kính yêu của dân tộc một cách tha thiết:
''Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Biệt Bắc mà nuôi chí bền''
⇒ Qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ ta thấy được nỗi nhớ của cán bộ về xuôi cũng như nhân dân Việt Bắc về vị cha già kính yêu của dân tộc một cách thật tha thiết - Người đã mở cho Cách mạng Việt Nam một con đường mới.
+ Lối điệp cấu trúc qua hai câu thơ 6 chữ bắt đầu bằng chữ ''ở đâu'' đều xuất hiện hình ảnh của hiện thực đau đớn của quê hương đất nước ta: "u ám quân thù'', '' đau đớn giống nòi''.
⇒ Đó là những hình ảnh hiện thực đau đớn của một dân tộc bị mất nước, bị giặc ngoại xâm: chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng gây ra nạn đói khủng khiếp khiến hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói,... một hiện thực khó mà phai mờ được.
+ Để làm nhẹ dịu hình ảnh đau đớn ấy, nhà thơ đã lồng vào 2 hình ảnh đối lập: '' Cụ Hồ sáng soi'', ''mà nuôi chí bền'' ở câu thơ 8 chữ.
+ Điệp từ ''nhìn'' và ''trông'' ở hai câu thơ 8 chữ đểu hướng về Việt Bắc - trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. ''Cụ Hồ sáng soi'' gợi đến ánh sáng của lí tưởng soi đường cho dân tộc, ánh sáng của những chỉ đạo sáng suốt , ánh sáng của niềm tin và hy vọng.
+ Cụm từ '' mà nuôi chí bền '' diễn tả dù hiện thực có gian khổ đến đâu thì, phải đối diện với những khó khăn thử thách nhiều thế nào thì chỉ cần nhìn về Việt Bắc nhân dân sẽ cảm thấy có lòng tin và ý chí chiến đấu, nuôi chí bền, trường kỳ kháng chiến chắc chắn sẽ thành công.
⇒ Bốn câu thơ cuối trong khổ là lời khẳng định của người cán bộ về xuôi, cán bộ sẽ không quên 15 năm ấy - 15 năm chúng ta đã từng gắn bó thiết tha mặn nồng, đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc; cán bộ sẽ không quên Việt Bắc là quê hương của Cách mạng bởi chính nơi này mình và ta đã cùng nhau đấu để có được nền Cộng hòa cho ngày hôm nay.
“Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào...”
+ Một lần nữa Tố Hữu lại nhắc đến 2 địa danh nổi tiếng và 2 sự kiện nổi bật đã từng diễn ra ở Việt Bắc '' Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào'' chỉ để nhấn mạnh rằng mình sẽ luôn nhớ về Việt Bắc - cái nôi của Cách mạng.
⇒ Ẩn trong nỗi nhớ ấy chính là lòng biết ơn sâu sắc và lời hứa sẽ luôn thủy chung của người cán bộ miền xuôi với cán bộ miền ngược.
1. Nội dung
- Trích đoạn phản ánh chân thực hiện thực một thời kì kháng chiến gian khổ, khốc liệt nhưng hào hùng, bi tráng, gắn liền với vùng đất Việt Bắc.
- Bằng ngòi bút tinh tế, tài hoa nhà thơ đã ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Bắc gắn liền với những kỉ niệm thấm đượm tình quân dân trong sinh hoạt và chiến đấu. Từ đó thể hiện truyền thống yêu nước, thủy chung, ân nghĩa.
2. Nghệ thuật
- Bài thơ xây dựng theo kết cấu đối đáp, hô ứng, đồng vọng. Tiếng nói của người ở - kẻ đi cất lên âm vang nhưng lại chỉ là lời nhắn nhủ, tâm tình, sâu lắng.
- Thể thơ lục bát truyền thống được vận dụng tài tình, vừa tạo ra âm hưởng truyền thống vừa biến đổi đa dạng.
- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ quen thuộc (so sánh, ẩn dụ, ước lệ,…)
- Lời thơ giàu tính tạo hình, gợi cảm, gần gũi,…
Cuối bài thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại…. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng, như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn!”
Xuân Diệu đã từng nói: “Với Việt Bắc, hồn thơ Tố Hữu cũng như nghề thơ Tố Hữu chín rộ,... Không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương Cách mạng chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc.” Bởi thế, qua bao năm tháng, bao biến động của lịch sử, bài thơ như tiếng hát thiết tha vẫn làm rung động lòng người. Nếu thơ ca là một dòng sông thì Tố Hữu chắc hẳn là một dòng sông xanh mà đời đời thương nhớ. Dòng sông ấy vẫn đang hợp lưu trong lòng thế hệ bạn đọc hôm nay và cả mai sau.
1. “Không có Đảng thì không có thơ anh. Tâm hồn anh, máu thịt anh, nội dung các tác phẩm của anh, cách nhìn và bút pháp của anh nữa, có thể nói tất cả là Đảng đã cho anh. Anh là một nhà thơ cộng sản.” (Chế Lan Viên)
2. “Mà nói vậy: Trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ, và phần để em yêu.”
(Tố Hữu)
3. “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.” (Tố Hữu - "Nhà văn nói về tác phẩm")
4. “Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên.” (Xuân Diệu -"Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu")
5. “Mối tình giữa người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng được Tố Hữu diễn tả như một mối tình riêng.” (Nguyễn Đức Quyền)
6. “Việt Bắc là khúc hát ân tình thủy chung réo rắt, đằm thắm vào bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm, lâu bền của bài thơ.” (Trần Đình Sử)
7. “Mình về có nhớ ta chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.”
Hay:
“Mình về ta dặn câu này,
Dặn dăm câu nhớ,dặn vài câu thương”
(Ca dao)